Xác định giai đoạn phạm tội trong tình huống trộm cắp tài sản

      Xã hội của chúng ta ngày nay đang ngày càng phát triển dẫn đến cuộc sống của người dân được nâng cao, nhưng phát triển cùng với nó là tình hình tội phạm ở nước ta hiện nay càng trở nên phức tạp; đặc biệt là với tội trộm cắp tài sản.Trong những năm gần đây, số lượng các vụ án liên quan đến tội trộm cắp tài sản tăng cao rõ rệt  cùng với nhiều phương thức và thủ đoạn tinh vi hơn. Đặc biệt, độ tuổi người phạm tội cũng có sự mở rộng, trong đó có nhiều đối tượng phạm tội là trẻ chưa thành niên. Vì vậy, để có thể tìm hiểu một cách cụ thể và chính xác về tội phạm này cũng như khung hình phạt để áp dụng một cách chính xác là rất cần thiết.

      Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề này, em đã chọn đề bài số 02 về tội trộm cắp tài sản cho bài tập học kỳ của mình. Quá trình làm bài còn nhiều thiếu sót, em mong sẽ nhận được nhiều những ý kiến đóng góp, hướng dẫn từ các thầy cô.


Danh mục tài liệu tham khảo:

  • Giáo trình Luật Hình sự, Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân
  • Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 ( sửa đổi, bổ sung năm 2009)
  • Nghị quyết số 01/2007/NQ – HĐTP ngày 02/10/2007
  • Thông tư liên tịch 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP

Tình huống được đặt ra

      Đức (17 tuổi) và Thanh (15 tuổi) biết gia đình anh Mạnh thường không có ai ở nhà vào buổi sáng. Khoảng 9h sáng ngày 26 tháng 7 năm 2013, Đức và Thanh phá khóa vào nhà anh Mạnh để lấy tài sản. Đức đang dắt dắt chiếc xe máy của anh Mạnh ra sân (chiếc xe máy trị giá 30 triệu đồng ( thuộc trường hợp bị xét xử theo khoản 1 Điều 138 BLHS), đúng lúc đó anh Mạnh quay về nhà, phát hiện và hô hoán. Đức bị mọi người bắt giữ.

      Câu hỏi:

  • Đức và Thanh có đồng phạm trong vụ trộm cắp tài sản không? Tại sao? (2 điểm)
  • Hình phạt cao nhất mà Tòa án có thể áp dụng đối với Đức là bao nhiêu năm tù (2 điểm)
  • Đức có thể được hưởng án treo không? Tại sao? (2 điểm)
  • Giả định khi bị anh Mạnh bắt giữ, Đức đã có hành vi đánh lại anh Mạnh để chạy trốn nên bị xét xử theo khoản 2 Điều 138 BLHS và bị phạt 2 năm tù thì hành vi phạm tội của Đức là tội ít nghiêm trọng hay tội nghiêm trọng? (1 điểm)

Giải quyết tình huống

Đức và Thanh có đồng phạm trong vụ trộm cắp tài sản không? Tại sao?

       Trả lời: Đức và Thanh không đồng phạm trong vụ trộm cắp tài sản.

       Giải thích: Theo khoản 1 điều 20 BLHS quy định: “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”. Theo nội dung này, đồng phạm đòi hỏi phải có các dấu hiệu cả về mặt khách quan và mặt chủ quan của tội phạm.

       Về mặt khách quan, Thanh (15 tuổi) chưa đủ tuổi chịu TNHS đối với tội phạm ít nghiệm trọng và nghiêm trọng theo khoản 2 điều 12 “Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.

       Xét tình huống Đức và Thanh chỉ cùng nhau trộm cắp tài sản chứ không có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về trước, không có kết cấu chặt chẽ nên hành vi của Đức và Thanh không thuộc vào trường hợp phạm tội có tổ chức và cũng không thuộc các tình tiết tăng nặng thuộc khoản 3, khoản 4 điều 138 BLHS. Từ những căn cứ trên thì hành vi của Đức và Thanh phù hợp với quy định tại khoản 1 điều 138 BLHS.

       Theo khoản 1 điều 138 thì khung hình phạt được áp dụng là “cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”, như vậy khung hình phạt cao nhất là “ ba năm tù”. Căn cứ vào khoản 3 điều 8 BLHS về phân loại tội phạm ta xác định được tội phạm mà Đức và Thanh thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng “Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù”.

Xác định giai đoạn phạm tội trong tình huống trộm cắp tài sản

       Từ những phân tích trên ta có thể khẳng định Đức và Thanh không đồng phạm trong vụ trộm cắp tài sản.

Hình phạt cao nhất mà Tòa án có thể áp dụng đối với Đức là bao nhiêu năm tù

       Trả lời : Hình phạt cao nhất mà tòa án có thể áp dụng đối với Đức là hai năm ba tháng tù.

       Giải thích: Dựa vào những thông tin tình huống của vụ việc trên ta có thể thấy là: Đức lấy trộm chiếc xe máy của anh Mạnh nhưng bị anh Mạnh phát hiện khi chưa kịp có thời gian tẩu tán tài sản; đồng thời ngoài việc lấy chiếc xe thì Đức không gây thêm bất cứ thiệt hại nào khác cho gia đình nhà anh Mạnh nên có thể nói rằng Đức chưa ra thiệt hại gì và cũng không có thêm tình tiết tăng nặng nào.

       Mặt khác trong tình huống của nêu trên không có cung cấp thông tin nào về việc Đức đã phạm tội nào khác trước đó nên ta có thể cho rằng đây là lần đầu Đức phạm tội. Ngoài ra, căn cứ theo khoản 1 Điều 138, BLHS thì hành vi trộm cắp của Đức là tội ít nghiêm trọng nên có thể khẳng định hình phạt cao nhất mà tòa án có thể áp dụng đối với Đức là ba năm từ căn cứ theo khoản 3 điều 8 BLHS.

       Nhưng Đức 17 tuổi là người chưa thành niên nên hình phạt cao nhất mà tòa án có thể áp dụng đối với Đức không quá ba phần tư mức phạt mà luật quy định là ba năm. Nên mức phạt cao nhất mà tòa án có thể áp dụng đối với Đức là hai năm ba tháng tù theo khoản 1 điều 74 BLHS “Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười tám năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định”.

Đức có thể được hưởng án treo không? Tại sao?

          Trả lời: Đức có thể được hưởng án treo

       Giải thích: Theo BLHS hiện hành, án treo được hiểu là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Cụ thể, khoản 1 Điều 60 BLHS đã quy định án treo như sau: “Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm”.

       Trong Nghị quyết số 01/2007/NQ – HĐTP ngày 02/10/2007, HĐTP TANDTC đã hướng dẫn chi tiết về các căn cứ cho hưởng án treo như sau:

       Bị xử phạt tù không quá ba năm, không phân biệt về tội gì.

       Trường hợp người bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội mà khi tổng hợp hình phạt, hình phạt chung không quá ba năm tù, thì cũng có thể cho hưởng án treo.

       Có nhân thân tốt được chứng minh là ngoài lần phạm tội này họ luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân; chưa có tiền án, tiền sự; có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú cụ thể, rõ ràng.

       Có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên và không có tình tiết tăng nặng, trong đó có ít nhất là một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của BLHS. Trường hợp vừa có tình tiết giảm nhẹ vừa có tình tiết tăng nặng, thì tình tiết giảm nhẹ phải nhiều hơn tình tiết tăng nặng từ hai tình tiết trở lên.

       Nếu không bắt họ đi chấp hành hình phạt tù thì không gây nguy hiểm cho xã hội hoặc không gây ảnh hưởng xấu trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.

       Để có thể biết được Đức có thể được hưởng án treo hay không, ta cần phải dựa vào quy định tại khoản 1 Điều 60 BLHS và hướng dẫn chi tiết tại Nghị quyết số 01/2007/NQ – HĐTP ngày 02/10/2007, HĐTP TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của bộ luật hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt. Cụ thể:

       Thứ  nhất,căn cứ vào khoản 1 điều 138 Đức là tội phạm ít nghiêm trọng nên mức khung hình phạt cao nhất mà Đức phải nhân là 3 năm tù, tức là mức phạt tù mà Đức phải chịu không quá 3 năm.

       Thứ hai, đó là có nhân thân tốt được chứng minh là ngoài lần phạm tội này họ luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân. Trong tình  huống trên không nêu rõ về vấn đề này nên khả năng  Đức thỏa mãn các điều kiện trong căn cứ thứ hai là có thể có.

       Thứ ba, đó là có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên và không có tình tiết tăng nặng, trong đó có ít nhất là một tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1 Điều 46 của BLHS. Trường hợp vừa có tình tiết giảm nhẹ vừa có tình tiết tăng nặng, thì tình tiết giảm nhẹ phải nhiều hơn tình tiết tăng nặng từ hai tình tiết trở lên.

       Căn cứ vào khoản 1 Điều 46 BLHS và dựa vào tình tiết của vụ việc là Đức lấy trộm chiếc xe máy của anh Mạnh nhưng bị phát hiện và chưa gây ra thiệt hại gì nghiêm trọng cho gia đình nhà anh Mạnh. Từ đó, ta có thể xác định rằng Đức có một tình tiết giảm nhẹ quy định tại điều này; cụ thể được quy định tại điểm g) Khoản 1 Điều 46 BLHS: “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn”. Ngoài ra, ta dựa trong tình huống không nêu rõ thêm những tình tiết khác nên có thể Đức còn thỏa mãn tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h) khoản 1 Điều 46 BLHS: “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Dựa vào những thông tin mà thì Đức không có tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 BLHS

        Cuối cùng, đó là nếu không bắt họ đi chấp hành hình phạt tù thì không gây nguy hiểm cho xã hội hoặc không gây ảnh hưởng xấu trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Về căn cứ thứ tư này thì trường hợp của Đức có thể thỏa mãn điều kiện này.Do trường hợp phạm tội của Đức thuộc tội ít nghiêm trọng nên không gây hậu quả quá lớn cho xã hội, dừng ở mức có thể chấp nhận được hay nói đúng hơn là có thể tự cải tạo thông qua việc tu dưỡng đạo đức ở nơi cư trú mà không cần biện pháp mạnh như phải chấp hành hình phạt tù.

       Từ những phân tích trên, ta có thể đưa ra kết luận là: Đức có thể được hưởng án treo.

Giả định khi bị anh Mạnh bắt giữ, Đức đã có hành vi đánh lại anh Mạnh để chạy trốn nên bị xét xử theo khoản 2 Điều 138 BLHS và bị phạt 2 năm tù thì hành vi phạm tội của Đức là tội ít nghiêm trọng hay tội nghiêm trọng?

       Trả lời: Hành vi phạm tôi của Đức là tội phạm nghiêm trọng.

       Giải thích: Bộ luật hình sự 1999 quy định về tình tiết hành hung để tẩu thoát, tuy nhiên, không đưa ra định nghĩa thế nào là hành hung để tẩu thoát. Theo thông tư liên tịch 02/2001/ TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP thì trường hợp hành hung để tẩu thoát bao gồm 2 trường hợp:

        Thứ nhất, người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản thì bị phát hiện và người phạm tội có hành vi chống trả lại người phát hiện nhằm tẩu thoát.

        Thứ hai, người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản đó thì bị phát hiện và người phạm tội có hành vi chống trả lại người phát hiện nhằm tẩu thoát.

       Trong trường hợp nạn nhân hoặc người khác giành lại được tài sản mà người phạm tội trộm hoặc cướp giật được, mà người phạm tội tiếp tục dùng bạo lực hoặc đe dọa dùng bạo lực ngay lập tức để một lần nữa chiếm đoạt tài sản đó thì đây không phải là trường hợp “hành hung để tẩu thoát” mà sẽ chuyển hóa từ tội trộm cắp hoặc cướp giật tài sản thành tội cướp tài sản.

        Xét tình huống, Đức chỉ có hành vi đánh lại anh Mạnh để chạy trốn mà không có ý định chiếm đoạt tài sản một lần nữa nên hành vi của Đức không thể chuyển hóa từ tội trộm cắp tài sản thành tội cướp tài sản.

       Hành vi đánh anh Mạnh để chạy trốn của Đức thuộc loại tội phạm trộm cắp tài sản có tình tiết tăng nặng là hành hung để tẩu thoát được quy định tại điểm đ khoản 2 điều 138 BLHS. Mà mức cao nhất của khung hình phạt trong trường hợp này là bảy năm tù nên ta có thể khẳng định hành vi phạm tội của Đức là tội nghiệm trọng theo khoản 3 điều 8 BLHS “Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.”

       Đối với tội trộm cắp tài sản thì chúng ta có rất nhiều khung hình phạt, nhưng để đưa ra một khung hình phạt chính xác nhất để tránh đi những sai sót trong việc xử lý các vụ án thì chúng ta cần đi sâu vào các tình tiết có trong vụ việc; đồng thời chúng ta còn cần áp dụng các điều luật, nghị định… một cách linh hoạt và chính xác. Việc quy định những khung hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản đã góp phần làm giả đi những hành vi phạm tội, tạo điều kiện cho xã hội phát triển. Em hy vọng từ đó với các khung hình phạt rõ ràng thì cơ quan điều tra, cơ quan xét xử sẽ xác định được chính xác các trường hợp, áp dụng đúng người đúng tội và trách bỏ sót tội phạm.


Trên đây là toàn bộ thông tin mà chúng tôi cung cấp đến bạn về vấn đề: Xác định giai đoạn phạm tội trong tình huống trộm cắp tài sản. Để được tư vấn cụ thể hơn bạn vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn luật trực tuyến qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy.

Trân trọng ./.


 

phone-call

GỌI HỎI ĐÁP MIỄN PHÍ

Scroll to Top