Quan hệ sở hữu là quan hệ xã hội rất phổ biết hiện nay, trong quan hệ sở hữu thì quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt của chủ thế sở hữu luôn được pháp luật đảm bảo. Nhưng trong thực tế quan hệ sở hữu này rất hay bị các chủ thể khác xâm phạm, các tội về xâm phạm sở hữu được quy định tại chương XVI BLHS 2015. Để tìm hiểu các quy định về bảo vệ quan hệ sở hữu em xin chọn Bài 2 là đề tài của bài tập học kỳ.
Do trình độ am hiểu cũng như lượng kiến thức có hạn của bản thân cho nên trong bài làm sẽ còn nhiều hạn chế, thiếu sót. Em kính mong sẽ nhận được những ý kiến phê bình và nhận xét của các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong tổ bộ môn đã ân cần giảng dạy trong các tiết học, cũng như giờ thảo luận để giúp em hoàn thành bài tập này.
Danh mục từ viết tắt
Mọi người cũng xem:
Từ viết tắt | |
BLHS | Bộ luật hình sự |
NBX | Nhà xuất bản |
Danh mục tài liệu tham khảo:
- Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 – NXB Chính trị quốc gia sự thật
- TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Tôi phạm và cấu thành tội phạm – NXB Công an nhân dân – Hà Nội 2012
- TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Mô hình luật Hình Sự Việt Nam – NXB Công an nhân dân – Hà Nội 2012
- Lê Đăng Doanh, Định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu – NXB Tư pháp – Hà Nội 2013
- Định Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự – Phần các tội phạm. Tập 2, Các tội xâm phạm sở hữu – NXB TP Hồ Chí Minh 2002
Tình huống đưa ra
Mọi người cũng xem:
Bài 2 : Do có mâu thuẫn trong kinh doanh, P đã thuê Q đến đốt xưởng sản xuất gỗ của N vào ban đêm. Hậu quả là toàn bộ nhà xưởng và máy móc của N đã bị thiêu huỷ, thiệt hại 350 triệu đồng. Hỏi:
- Xác định tội danh và khung hình phạt áp dụng đối với hành vi của P, Q. (2 điểm)
- Giả sử khi đốt xưởng gỗ, Q không biết còn 1 công nhân là H bị say rượu đang ngủ trong xưởng nên đã gây ra hậu quả chết người, thì Q có phải chịu trách nhiệm hình sự về cái chết của người công nhân này không? Tại sao? (3 điểm)
- Giả sử Q vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội cướp tài sản, chưa được xoá án tích lại thực hiện hành vi phạm tội nêu trên thì trường hợp phạm tội của Q là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm? Tại sao? (2 điểm)
Xác định tội danh và khung hình phạt áp dụng đối với hành vi của P, Q
Mọi người cũng xem:
Tội danh và khung hình phạt của Q
Trả lời: Q phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản và khung hình phạt cho Q là từ 5 năm đến 10 năm tù.
Có thể khẳng định hành vi của Q đã thỏa mãn đầy đủ các yếu tố để cấu thành tội phạm hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, đó là:
Mặt khách quan của tội phạm.
Hành vi khách quan của tội phạm: Hành vi khách quan của tội này là hình vi hủy hoại tài sản. Hành vi hủy hoại đó làm cho tài sản mất giá trị sử dụng ở mức độ không còn hoặc khó có khả năng khôi phục lại được. Hành vi của Q là đốt xưởng sản xuất gỗ của N.
Hậu quả của tội phạm: Hành vi của Q gây nguy hiểm cho xã hội dẫn đến hậu quả là toàn bộ xưởng sản xuất gỗ và máy móc của N bị thiêu hủy gây thiệt hại 350 triệu đồng.
Quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm: Q phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình gây ra, bởi vì hậu quả thiệt hại nêu trên xảy ra là do hành động đốt xưởng của Q, nếu không có hành vi đốt xưởng, thì thiệt hại không xảy ra. Đó chính là mối quan hệ nhân quả, thiệt hại của N do chính Q gây ra nên Q phải chịu trách nhiêm hình sự về thiêt hại tài sản của N.
Mặt chủ quan của tội phạm.
Lỗi: Lỗi của Q là lỗi có ý trực tiếp, Q biết hành vi của mình sẽ gây hậu quả là hủy hoại tải sản của N nhưng vẫn thực hiện và mong muốn hậu quả đó xảy ra.
Động cơ của tội phạm: Tội phạm này không quy định động cơ là dấu hiệu bắt buộc, trong trường hợp này Q thực hiện hành vi phạm tội của mình không nhằm động cơ gì nhưng hành vi hủy hoại tài sản của N cũng đủ để cấu thành tội phạm.
Từ những phân tích trên ta thấy tội danh của Q phạm phải là tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo quy định tại điều 178 BLHS 2015.
“1. Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
đ) Tài sản là di vật, cổ vật.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
c) Tài sản là bảo vật quốc gia;
d) Dùng chất nguy hiểm về cháy, nổ hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
đ) Để che giấu tội phạm khác;
e) Vì lý do công vụ của người bị hại;
g) Tái phạm nguy hiểm.
Phạm tội gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
Phạm tội gây thiệt hại cho tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.
Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Hành vi hủy hoại tài sản của Q gây thiệt hại 350 triệu thì theo quy định tại khoản 3 điều 178:” Phạm tội gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.” Nên khung hình phạt mà Q phải chịu là từ 05 đến 10 năm tù.
Tội danh và khung hình phạt của P
Trả lời: P phạm tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản và khung hình phạt cho Q là từ 5 năm đến 10 năm.
Xét tình huống trên, do mâu thuẫn trong kinh doanh P đã thuê Q đốt xưởng sản xuất gỗ của N làm tổn hại tài sản của N nên theo quy định tại điều 17 BLHS 2015quy định về đồng phạm:
Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.
Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.
Người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.
Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.
Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.
Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.
Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành.
Trong trường hợp này do P mâu thuẫn với N trong kinh doanh nên P đã thuê Q đốt xưởng sản xuất gỗ của N. Hành vi này của Q có tính chất thúc đẩy hành vi phạm tội của Q nên P là đồng phạm của Q với vai trò là người xúi giục.
Trong tình huống trên căn cứ vào điều 17 BLHS 2015 thì P đã đồng phạm về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. Hơn nữa mức thiệt hại mà P đã đồng phạm gây ra là 350 triệu nên theo quy định tại khoản 3 điều 178 BLHS 2015:” Phạm tội gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.” thì khung hình phạt của P là từ 5 năm đến 10 năm tù.
Giả sử khi đốt xưởng gỗ, Q không biết còn 1 công nhân là H bị say rượu đang ngủ trong xưởng nên đã gây ra hậu quả chết người, thì Q có phải chịu trách nhiệm hình sự về cái chết của người công nhân này không? Tại sao?
Mọi người cũng xem:
Trả lời: Q phải chịu trách nhiệm hình sự về cái chết của người công nhân H.
Trong tình huống trên, ta xét các dấu hiệu của cấu thành tội phạm:
Hành vi khách quan: Mặc dù Q không hề biết là trong xưởng sản xuất gỗ còn một công nhân là H nhưng pháp luật đòi hỏi Q phải nhìn thấy trước được hậu quả có thể có người trong xưởng dù đã hết giờ làm việc, vì nơi Q phóng lửa đốt là xưởng làm việc. Q cần phải nhìn nhận được trường hợp có người còn làm việc trong xưởng, ở lại gác đêm, tăng ca,… Đây là quy tắc đòi hỏi người xử sự phải nhìn thấy trước trường hợp này, nhằm đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe cho con người. Dù trong trường hợp này Q chỉ có ý định đốt xưởng nhằm hủy hoại tài sản của N nhưng đòi hỏi Q phải thấy trước hậu quả chết người trên.
Hậu quả: Hậu quả ở đâu chính là Q đã làm chết người công nhân H.
Quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm: Cái chết của người công nhân H xảy ra do hành vi của Q gây ra. Q đốt xưởng sản xuất gỗ của N với mục đích nhằm phá hủy các máy móc, thiết bị của N nhưng do chủ quan, không kiểm tra kỹ nên không biết là vẫn còn người công nhân H ngủ trong xưởng. Mặc dù Q không có ý định giết người nhưng cái chết của H xảy ra do hành vi đốt xưởng sản xuất gỗ của Q gây ra. Nếu Q không đốt xưởng sản xuất gỗ thì H không chết.
Mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi của Q là lỗi vô ý. Trong trường hợp này lỗi vô ý của Q là vô ý do cẩu thả. Q đã không thấy trước được hậu quả là cái chết của công nhân H mặc dù là Q phải thấy trước được hậu quả này xảy ra.
Từ các phân tích ở trên Q phải chịu trách nhiệm hình sự về cái chết của H với tội danh vô ý làm chết người được quy định tại điều 128 BLHS 2015. Xét toàn bộ tình huống thì Q phải chịu trách nhiệm hình sự với hai tội danh là tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản và vô ý làm chết người.
Giả sử Q vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội cướp tài sản, chưa được xoá án tích lại thực hiện hành vi phạm tội nêu trên thì trường hợp phạm tội của Q là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm? Tại sao?
Mọi người cũng xem:
Các tội về xâm phạm sở hữu
Trả lời: Trường hợp phạm tội của Q là tái phạm nguy hiểm.
Trong tình huống trên Q vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội cướp giật tài sản và chưa được xóa án tích mà theo quy định tại khoản 1 điều 168 BLHS 2015 quy định về tội cướp tài sản: “ Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.” Và theo khoản 1 điều 9 BLHS 2015 quy định về phân loại tội phạm:
“1. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;
Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm đến 07 năm tù;
Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù;
Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.”
Từ đó ta có thể thấy tôi cướp tài sản mà Q phạm là tội rất nghiêm trọng do cố ý. Sau khi chấp hành xong bản án và chưa được xóa án tích Q lại phạm tội với tội danh hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trong trường hợp này đã gây thiệt hại 350 triệu đồng và mức cao nhất của khung hình phạt mà Q phải chịu theo khoản 3 điều 178 BLHS 2015 là 10 năm tù thuộc loại tội rất nghiêm trọng.
Vậy theo quy định về tái phạm và tái phạm nguy hiểm của BLHS 2015 được quy định tại điều 53 thì trường hợp phạm tội của Q là tái phạm nguy hiểm.
“1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
a) Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.”
Tội phạm nói chung và tội phạm xâm phạm quyền sở hữu nói riêng không còn là vấn đề mới trong xã hội hiện nay. Tuy nhiên để loại bỏ hoàn toàn tội phạm không phải là vấn đề đơn giản mà vô cùng khó khăn. Trên thực tế các quy định của pháp luật chỉ dừng lại ở việc ngăn chặn, răn đe và hạn chế các hành vi phạm tội xảy ra. Vì vậy pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng cần có những biện pháp nghiêm khắc hơn nhằm hướng tới một xã hội không có tội phạm.
Trên đây là toàn bộ thông tin mà chúng tôi cung cấp đến bạn về vấn đề: Các tội về xâm phạm sở hữu được quy định tại chương XVI Bộ luật hình sự 2015. Để được tư vấn cụ thể hơn bạn vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn luật trực tuyến qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy.
Trân trọng ./.