Bình luận mức độ phù hợp của quy định hiện hành với cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến mô hình các chủ thể kinh doanh chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Bình luận mức độ phù hợp của quy định hiện hành với cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến mô hình các chủ thể kinh doanh chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam

      CTCK là một tổ chức trung gian quan trọng trên thị trường chứng khoán, đóng vai trò tạo ra cơ chế huy động vốn cho thị trường, cung cấp một cơ chế xác định giá trị của các khoản đầu tư và giúp nhà đầu tư chuyển các khoản đầu tư thành tiền. Các cam kết về dịch vụ chứng khoán trong WTO và TPP được xác định trên cơ sở đối tượng là các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán (môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư và một số nghiệp vụ bổ trợ khác) mà chủ thể là CTCK nước ngoài được cung cấp tại Việt Nam. Theo pháp luật chứng khoán các nước nói chung và Việt Nam nói riêng, các dịch vụ chứng khoán hay nghiệp vụ chứng khoán luôn gắn liền với chủ thể thực hiện là CTCK; do vậy, các cam kết về dịch vụ chứng khoán có thể nói là tương đồng với cam kết về tổ chức và hoạt động của CTCK. Các cam kết quốc tế trong WTO và TPP đặt ra yêu cầu mở cửa thị trường đối với một số dịch vụ chứng khoán mà Chính phủ Việt Nam cam kết vẫn còn rất mới với các CTCK trong nước – các tổ chức trung gian quan trọng trong thị trường chứng khoán.

      Đối với Việt Nam, pháp luật quy định rõ các loại chủ thể kinh doanh chứng khoán cùng với những nội dung kinh doanh được phép tiến hành cho mỗi loại chủ thể mới là thành viên sở giao dịch chứng khoán hay trung tâm giao dịch chứng khoán. Theo đó, pháp luật Việt Nam quy định các mô hình chủ thể kinh doanh chứng khoán bao gồm: công ty chứng khoán, quỹ đầu tư và công ty đầu tư chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư và ngân hàng giám sát. Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này. Em xin chọn đề số 11 “Bình luận mức độ phù hợp của quy định hiện hành với cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến mô hình các chủ thể kinh doanh chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam” để làm bài tập lớn của mình


Danh mục tài liệu tham khảo:

  • Giáo trình Luật chứng khoán, Trường đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2008.
  • Luật chứng khoán năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2010).

Các cam kết quốc tế về dịch vụ chứng khoán

Cam kết của Việt Nam về dịch vụ chứng khoán trong WTO

      Phương thức Cung cấp dịch vụ qua biên giới: Việt Nam chỉ cam kết cho phép cung cấp dịch vụ qua biên giới (không đòi hỏi phải thông qua hiện diện thương mại) đối với các dịch vụ: C(k) và C(l).

     Phương thức Tiêu dùng ở nước ngoài: Việt Nam cam kết không hạn chế, không giới hạn việc tiêu dùng dịch vụ ngoài biên giới đối với toàn bộ các dịch vụ chứng khoán được liệt kê tại Biểu cam kết dịch vụ.

     Phương thức Hiện diện thương mại: Đối với hình thức liên doanh, văn phòng đại diện, ngay khi gia nhập, các nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán nước ngoài được thành lập văn phòng đại diện và công ty liên doanh với đối tác Việt Nam trong đó tỷ lệ vốn góp của phía nước ngoài không vượt quá 49%.

     Phương thức Hiện diện thể nhân: Việt Nam đều chưa cam kết về hạn chế tiếp cận thị trường và hạn chế đối xử quốc gia, trừ các cam kết chung.

Cam kết của Việt Nam về dịch vụ chứng khoán trong TPP

     Nội dung cam kết về dịch vụ chứng khoán của Hiệp định TPP nằm tại Chương 11 – Dịch vụ Tài chính. Các phần liên quan tới dịch vụ chứng khoán tại Chương này bao gồm:

     Phần quy định của Chương Dịch vụ Tài chính. Phần này bao gồm 22 Điều, đưa ra các định nghĩa chung, đối tượng, phạm vi điều chỉnh, các nghĩa vụ trong hiệp định, các quy định về các tổ chức được ủy quyền quản lý, …

     Phần Phụ lục 11-A về Giao dịch Xuyên biên giới: Liên quan tới dịch vụ chứng khoán là nội dung về dịch vụ cung cấp, chuyển thông tin tài chính, xử lý dữ liệu tài chính qua biên giới.

     Phần Phụ lục 11-B các Cam kết cụ thể: liên quan đến lĩnh vực dịch vụ chứng khoán là cam kết cụ thể về quản lý danh mục đầu tư xuyên biên giới.

Mô hình chủ thể kinh doanh chứng khoán theo những cam kết quốc tế của Việt Nam

     Khi tiến hành gia nhập WTO Việt Nam đã ký kết các gói cam kết quan trọng. Trong đó có gói cam kết về dịch vụ tài chính với ba mảng lớn và liên quan đến các dịch vụ chứng khoán, Việt Nam cam kết cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham gia cung cấp các dịch vụ chứng khoán sau tại Việt Nam:

      Giao dịch cho tài khoản của mình hoặc tài khoản của khách hàng tại sở giao dịch chứng khoán, thị trường giao dịch trực tiếp (OTC) hay các thị trường khác những sản phẩm sau:

  • Các công cụ phái sinh, bao gồm cả hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền lựa chọn;
  • Các chứng khoán có thể chuyển nhượng;
  • Các công cụ có thể chuyển nhượng khác và các tài sản tài chính,  trừ vàng khối. (Các dịch vụ này bao gồm cả nghiệp vụ môi giới)

     Tham gia vào các đợt phát hành mọi loại chứng khoán, bao gồm bảo lãnh phát hành, và làm đại lý bán (chào bán ra công chúng hoặc chào bán riêng), cung cấp các dịch vụ liên quan đến các đợt phát hành đó);

     Quản lý tài sản (bao gồm quản lý danh mục đầu tư, mọi hình thức quản lý đầu tư tập thể, quản lý quỹ hưu trí, các dịch vụ lưu ký và tín thác);

     Các dịch vụ thanh toán và thanh toán bù trừ chứng khoán, các công cụ phái sinh và các sản phẩm liên quan đến chứng khoán khác;

      Cung cấp và chuyển thông tin tài chính, các phần mềm liên quan của các nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán.

     Ngoài ra, Việt Nam cam kết cho phép các công ty chứng khoán nước ngoài, các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động chứng khoán ở Việt Nam dưới các hình thức và điều kiện sau đây:

  • Văn phòng đại diện (với điều kiện các văn phòng đại diện không được thực hiện các hoạt động kinh doanh sinh lời trực tiếp);
  • Liên doanh với đối tác Việt Nam (với điều kiện tỷ lệ vốn góp của phía nước ngoài không vượt quá 49%);
  • Doanh nghiệp chứng khoán 100% vốn nước ngoài (kể từ 11/1/2012);
  • Chi nhánh của công ty chứng khoán nước ngoài (kể từ 11/1/2012 và kèm theo điều kiện hoạt động của chi nhánh chỉ giới hạn ở cung cấp các dịch vụ quản lý tài sản, thanh toán và thanh toán bù trừ chứng khoán, cung cấp và chuyển thông tin tài chính, các phần mềm liên quan.

     Như vậy, đối với mô hình chủ thể kinh doanh chứng khoán mặc dù không chỉ chính xác tên các loại hình nhưng cũng thể hiện thiện chí của Viêt Nam khi tiến hành ký các cam kết. Theo những cam kết này, Việt Nam gián tiếp thừa nhận các mô hình chủ thể đặc trưng của hoạt động kinh doanh chứng khoán.

Quy định hiện hành của Việt Nam liên quan đến mô hình của chủ thể kinh doanh chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Công ty chứng khoán

     Công ty chứng khoán là một tên gọi chỉ một loại doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán. Tuy nhiên, không phải bất kỳ chủ thể nào thực hiện hoạt động kinh doanh chứng khoán đều là công ty chứng khoán. Chủ thể thực hiện hoạt động kinh doanh, dịch vụ trên thị trường chứng khoán có nhiều loại chủ thể kinh doanh khác nhau như: công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán và một số chủ thể khác có cung cấp các dịch vụ có liên quanng ty chứng khoán là một loại chủ thể kinh doanh chủ yếu và quan trọng nhất.

     Hiện nay, tại Luật chứng khoán Việt Nam không có định nghĩa về công ty chứng khoán. Tuy nhiên, qua các quy định cụ thể trong Luật chứng khoán có thể khái quát định nghĩa về công ty chứng khoán như sau:

     Công ty chứng khoán là công ty cổ phần hoặc công ty TNHH được thành lập, hoạt động theo Luật chứng khoán và các các quy định của pháp luật có liên quan để thực hiện một, một số hoặc toàn bộ nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán dưới đây theo giấy phép do UBCKNN cấp: Môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán.

     Đặc điểm:

  • Hoạt động kinh doanh chứng khoán là hoạt động thường xuyên, có tính nghề nghiệp của công ti chứng khoán
  • Hình thức tổ chức: công ti cổ phần hoặc công ti TNHH
  • UBCKNN trực tiếp quản lý giám sát
  • Luật chứng khoán trực tiếp điều chỉnh

          Việt Nam Luật chứng khoán quy định: “Kinh doanh chứng khoán là thực hiện một trong các nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán; tư vấn đầu tư chứng khoán, lưu ký chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán”. Tại điều 60 Luật chứng khoán Việt Nam chỉ rõ: công ty chứng khoán được thực hiện một, một số hoặc toàn bộ nghiệp vụ kinh doanh sau đây: môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán; công ty chứng khoán được thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán; ngoài nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán quy định tại khoản 1 Điều này công ty chứng khoán được nhận ủy thác quản lý tài khoản giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư cá nhân, cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính và dịch vụ tài chính khác theo quy định của Bộ tài chính”.

     Đồng thời Luật chứng khoán Việt Nam có quy định cụ thể các điều kiện cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho công ty chứng khoán tương tự như pháp luật các nước khác.

Quỹ đầu tư chứng khoán và công ty đầu tư chứng khoán

     Công ty đầu tư chứng khoán là công ti được thành lập từ vốn góp của nhà đầu tư và sử dụng số vốn đó đầu tư chủ yếu vào chứng khoán, nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Các nhà đầu tư là cổ đông của công ti đầu tư chứng khoán. Cổ phiếu có thể được chào bán riêng lẻ hoặc chào bán ra công chúng tuỳ thuộc hình thức của công ti đầu tư chứng khoán đại chúng hay phi đại chúng, có tư cách pháp nhân, có bộ máy hoàn chỉnh; tự quản lý hoạt động đầu tư của mình. Việc huy động vốn thành lập công ti do công ti đảm nhiệm

     Theo Điều 97 Luật chứng khoán đã được sửa đổi bổ sung thì công ty chứng khoán được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần theo Luật doanh nghiệp để đầu tư chứng khoán và Ủy ban chứng khoán nhà nước sẽ cấp giấy phép hoạt động cho loại hình công ty này.

Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán

      Công ty quản lý quỹ là doanh nghiệp theo mô hình công ty cổ phần và công ty TNHH được thành lập để hoạt động quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và một số hoạt động kinh doanh khác có liên quan.

      Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán có những đặc điểm sau:

      + Được thành lập và hoạt động theo sự cho phép của UBCKNN

      + Hoạt động chính của công ty quản lý quỹ là hoạt động quản lý quỹ đầu tư chứng khoán theo sự ủy thác của các nhà đầu tư vào quỹ hoặc sự ủy thác của các nhà đầu tư riêng lẻ. Hoạt động quản lý quỹ đầu tư bao gồm việc nắm giữ tài sản của quỹ, trực tiếp tiến hành hoạt động đầu tư chứng khoán từ nguồn vốn của quỹ, quản lý danh mục đầu tư của quỹ…

Nhận xét mức độ phù hợp của quy định hiện hành với cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến mô hình chủ thể kinh doanh chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam

      Có thể nói Luật chứng khoán cũng đã quy định khá toàn diện về tổ chức, hoạt động của mô hình chủ thể kinh doanh chứng khoán trên cơ sở có kế thừa và phát triển để khắc phục những hạn chế đang tồn tại, phù với yêu cầu thực tiễn phát triển của thị trường chứng khoán trong tương lai, bảo đảm sự phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập.

      Mô hình chủ thể kinh doanh chứng khoán tồn tại từ lâu. Sự ra đời của mô hình chủ thể này phù hợp với cam kết quốc tế và tình hình kinh tế xã hội ở Việt Nam. Cụ thể như sau:

      + Luật chứng khoán đã quy định chi tiết các điều kiện cấp giấy phép, hồ sơ xin cấp giấy phép, trình tự và thời hạn cấp giấy phép, bổ sung giấy phép, thay đổi trong hoạt động, nghĩa vụ của chủ thể kinh doanh chứng khoán, các hạn chế đối với công ty chứng khoán nhằm bảo đảm an toàn trong hoạt động. Được xây dựng trên nguyên tắc chi tiết đến mức tối đa có thể, nhằm bảo đảm tính thực thi, giảm bớt các văn bản hướng dẫn dưới luật.

      + Luật đã quy định theo hướng cải cách thủ tục hành chính nhằm đơn giản hoá về mặt thủ tục và rút ngắn được thời gian thực hiện các công việc có tính thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân thực hiện đầy đủ các thủ tục của mình..

      Về điều kiện và thủ tục cấp giấy phép, Luật chứng khoán đã quy định đơn giản, rõ ràng và thực chất hơn.  Trong vấn đề cấp giấy phép thành lập hoạt động cho công ty chứng khoán trước đây quy định 5 điều kiện, hiện nay Luật chứng khoán chỉ quy định 3 điều kiện.

 Về hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập hoạt động của công ty chứng khoán, trước đây quy định đến 10 loại giấy tờ khác nhau thì Luật chứng khoán quy định 8 loại giấy tờ cần thiết. Đặc biệt hồ sơ xin cấp chứng chỉ hành nghề trước đây quy định trường hợp ít nhất cần đến 6 loại giấy tờ khác nhau thì nay Luật quy định chỉ có 3 loại giấy tờ cần thiết trong hồ sơ.

      + Riêng đối với công ty chứng khoán, luật chứng khoán quy định về tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán trên nguyên tắc không phân biệt giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài trong kinh doanh chứng khoán, đồng thời thể hiện rõ quan điểm mở cửa thị trường chứng khoán Việt Nam để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào hoạt động kinh doanh chứng khoán tại Việt Nam. Đây là một trong những điểm mới có tính đột phá lớn để thị trường chứng khoán Việt Nam hội nhập với khu vực và thế giới, tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam thực hiện đúng cam kết quốc tế, cam kết với WTO. Cụ thể:

      Trước đây nhà đầu tư nước ngoài muốn thực hiện các hoạt động kinh doanh chứng khoán tại Việt Nam thì chỉ có hình thức duy nhất góp vốn liên doanh với bên Việt Nam để thành lập công ty chứng khoán liên doanh. Nhà đầu tư nước ngoài chỉ được sở hữu không quá 30% vốn điều lệ và sau này tỷ lệ sở hữu là không quá 49% vốn điều lệ. Đồng thời, bên nước ngoài tham gia góp vốn liên doanh trong công ty chứng khoán phải là tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài đang hoạt động hợp pháp tại nước mà các tổ chức này đóng trụ sở chính.

      Theo Luật chứng khoán hiện nay quy định: công ty chứng khoán có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được tổ chức dưới hình thức công ty liên doanh hoặc công ty TNHH, công ty cổ phần 100% vốn nước ngoài do UBCKNN cấp giấy phép thành lập và hoạt động. Về điều kiện để được cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho công ty chứng khoán có vốn đầu tư nước ngoài thì ngoài các điều kiện giống với quy định cho công ty chứng khoán trong nước Luật còn quy định thêm điều kiện: là tổ chức kinh doanh chứng khoán đang hoạt động hợp pháp ở nước ngoài.

      + Một trong những điều kiện để cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho công ty chứng khoán là: Giám đốc (Tổng Giám đốc), các nhân viên kinh doanh của công ty chứng khoán phải có chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán.

      Trước đây, pháp luật quy định: Chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán được cấp cho các cá nhân theo đề nghị của công ty chứng khoán nơi cá nhân đó làm việc hoặc theo đề nghị của người đại diện thành viên sáng lập, người đại diện cổ đông sáng lập, chủ sở hữu tổ chức xin phép kinh doanh chứng khoán đối với trường hợp xin cấp chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán cùng với việc xin cấp phép kinh doanh chứng khoán, khi đáp ứng đủ các điều kiện. Chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán có thời hạn là 03 năm kể từ ngày cấp. Chứng chỉ hành nghề kinh doanh được gia hạn theo đề nghị của công ty chứng khoán nơi người hành nghề làm việc. Mỗi lần gia hạn tối đa không quá ba năm. Chứng chỉ hành nghề được gia hạn khi nhân viên hành nghề đạt yêu cầu trong kỳ thi sát hạch lại do UBCKNN tổ chức.

      Trường hợp người hành nghề kinh doanh chứng khoán không đạt yêu cầu trong kỳ thi sát hạch để gia hạn chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán, người hành nghề kinh doanh chứng khoán tạm thời không được làm việc tại các bộ phận kinh doanh cho tới khi được gia hạn chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán.

      Người hành nghề không còn làm việc cho công ty chứng khoán thì bị thu hồi chứng chỉ hành nghề; Nếu sau 01 năm kể từ ngày bị thu hồi chứng chỉ hành nghề, người hành nghề tiếp tục làm việc cho một công ty chứng khoán thì phải làm thủ tục thi sát hạch trước khi xin cấp chứng chỉ hành nghề. Trong trường hợp này, công ty chứng khoán nơi người hành nghề làm việc làm hồ sơ xin cấp chứng chỉ hành nghề kinh doanh theo quy định.

      + Luật chứng khoán hiện nay quy định khái quát và khá đầy đủ các nghĩa vụ cơ bản của công ty chứng khoán trong đó có một số nghĩa vụ mới được bổ sung trước đây pháp luật không quy định là nghĩa vụ bắt buộc hoặc không cho phép như: “Mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán tại công ty hoặc trích lập quỹ bảo vệ người đầu tư để bồi thường thiệt hại cho người đầu tư do sự cố kỹ thuật, sự bất cẩn và sơ suất của nhân viên trong công ty…. Thực hiện việc bán hoặc cho khách hàng bán chứng khoán khi không sở hữu chứng khoán và cho khách hàng vay chứng khoán để bán theo quy định của Bộ Tài chính”.

      Với quy định trên cho thấy Luật chứng khoán đã quan tâm hơn đến việc bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tư chứng khoán. Đồng thời, Luật chứng khoán đã dần khắc phục những hạn chế trong các quy định của pháp luật, bổ sung quy định mới cho phù hợp sự phát triển của TTCK trong tương lai ở Việt Nam và phù hợp với xu thế chung của thế giới. Luật Chứng khoán đã thừa nhận hoạt động bán khống, nhưng phải kiểm soát chặt chẽ nó để ngăn ngừa mặt tiêu cực và phát huy mặt tích cực của bán khống chứng khoán đối với với thị trường chứng khoán và đối với người đầu tư.

      Việt Nam ra nhập WTO là điều kiện thuận lợi để hội nhập quốc tế. Các mô hình chủ thể kinh doanh chứng khoán của VIệt Nam được quy định trước các cam kết mà Việt Nam tham gia ký kết với WTO. Các quy định này có mức độ phù hợp gần như tuyệt đối với cam kết quốc tế. Bởi lẽ, chủ yếu là các mô hình đặc trưng: công ty chứng khoán (được nhắc tới chủ yếu), công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán… Tuy nhiên, để phù hợp với sự phát triển chung xong vẫn đảm bảo sự khác biệt của nền kinh tế xã hội nước ta thì mô hình chủ thể kinh doanh chứng khoán được nhắc tới đầy đủ cụ thể hơn.

Phương hướng hoàn thiện

      Để đảm bảo cho việc tiến hành các hoạt động kinh doanh chứng khoán được thuận lợi, hiệu quả hơn, tránh lung túng trong việc xác định các chủ thể. Đồng thời để quá trình hội nhập ngày càng nhanh chóng thì bản thân các quy định về mô hình chủ thể kinh doanh chứng khoán Việt Nam cần phải phù hợp nhiều hơn với các cam kết mà Việt Nam tham gia đảm bảo khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài. Do vậy, các quy định về các chủ thể kinh doanh chứng khoán cần hoàn thiện hơn.

Bình luận mức độ phù hợp của quy định hiện hành với cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến mô hình các chủ thể kinh doanh chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam

      Thứ nhất, xác định rõ nội hàm của khái niệm kinh doanh chứng khoán.

      Việc xác định đúng nội hàm của hoạt động kinh doanh chứng khoán theo chúng tôi có ý nghĩa quan trọng. Để đảm bảo tính tôn nghiêm của pháp luật, các chủ thể có cùng điều kiện, môi trường kinh doanh, đối tượng kinh doanh và mục đích kinh doanh, phải có cùng những quy định pháp luật điều chỉnh. Nói cách khác, các chủ thể cùng tiến hành kinh doanh chứng khoán phải được đối xử như nhau về quyền và nghĩa vụ, cơ quan quản lý, thực hiện chế độ tài chính kế toán và báo cáo tài chính kế toán. Chẳng hạn những vấn đề liên quan đến nghĩa vụ thuế, các quỹ phòng ngừa rủi ro, dự trữ bắt buộc cần phải được áp dụng thống nhất mà trong thực tế những vấn đề này chưa thực hiện được.

      Thứ hai, xác định cụ thể bản chất pháp lý của công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, các chủ thể khác tham gia hoạt động chứng khoán cũng như các điều kiện khả thi để những mô hình này có thể chính thức ra đời.

      Xuất phát từ những luận giải về khái niệm kinh doanh đã đề cập, chúng tôi cho rằng, đi đôi với việc xác định lại nội hàm của khái niệm kinh doanh chứng khoán, cần phải xem xét bản chất pháp lý công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán.

      Nếu xét nội dung hoạt động đầu tư chứng khoán thông qua chứng chỉ quỹ đầu tư thì cơ chế hoạt động của công ty quản lý quỹ là cơ chế ba bên: công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán; ngân hàng giám sát; nhà đầu tư.

      Qua nghiên cứu, nhận thấy các nhà làm luật cũng như các nhà quản lý đều công nhận đây là một loại công ty chứng khoán. Chẳng hạn quan điểm “Đối với Việt Nam, công ty chứng khoán được phép thực hiện tất cả các hình thức kinh doanh chứng khoán. Riêng hình thức quản lý quỹ đầu tư, yêu cầu phải được hoạt động tách rời dưới hình thức một công ty độc lập” đã được phổ cập đến đông đảo người quan tâm. Điều này có nghĩa hoạt động quản lý đầu tư chứng khoán là một hoạt động kinh doanh chứng khoán và công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán là một công ty chứng khoán. Tuy nhiên, đây chỉ là những suy diễn hoặc diễn giải “ngoài hành lang”, mà không phải là một quy định pháp luật. Điều này thực sự gây khó khăn cho quá trình áp dụng pháp luật.

      vViệc đưa ra những đề xuất liên quan đến bản chất của công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán không chỉ xuất phát từ yêu cầu áp dụng pháp luật mà còn là một đòi hỏi khách quan của những người có dự định kinh doanh chứng khoán theo hình thức này. Nếu như những nội dung liên quan đến công ty chứng khoán có thể coi là khá rõ ràng thì đối với công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán vẫn còn đang mở. Chẳng hạn, việc xác định các loại thu nhập của công ty quản lý quỹ, ưu đãi hoặc miễn trừ nghĩa vụ trong những trường hợp nhất định có được áp dụng tương tự công ty chứng khoán. Về vấn đề này, Ủy ban chứng khoán Nhà nước thừa nhận “là không thực tế”, cần phải sớm điều chỉnh lại cho phù hợp.

      Nếu hoạt động định mức tín nhiệm là hoạt động phổ biến tại thị trường các quốc gia thì vấn đề này còn rất mới đối với Việt Nam. Đó là việc “đánh giá đúng về khả năng của một người phát hành có thể thanh toán đúng nợ gốc và lãi của một chứng khoán trong suốt thời gian tồn tại loại công cụ này”. Việc tồn tại các tổ chức định mức tín nhiệm sẽ tạo niềm tin cho người đầu tư vào các trái phiếu lưu hành trên thị trường, cũng tạo ra cơ hội xác định đúng đắn về giá chứng khoán, sự lựa chọn đầu tư của người đầu tư.

      Đối với các ngân hàng lưu ký, thanh toán chứng khoán, thực tiễn đang tiến hành các hành vi gắn với giao dịch chứng khoán, với mục đích kiếm lời, nhưng đây có phải là chủ thể kinh doanh chứng khoán hay không? Pháp luật hiện hành vẫn chưa xét tới vấn đề này. Câu hỏi này liên quan đến chế độ chịu trách nhiệm của ngân hàng lưu ký với nhà đầu tư chứng khoán. Ngoài ra, hoạt động lưu ký, thanh toán của các ngân hàng này có tách bạch hoàn toàn với nghiệp vụ ngân hàng hay không?

      Thứ ba, xây dựng lại và chuẩn hóa một số điều kiện thành lập hoạt động của công ty chứng khoán, kể cả điều kiện đối với chủ thể có yếu tố nước ngoài.

      Thứ tư, mở rộng phạm vi hoạt động của công ty chứng khoán. Khó có thể nói rằng công ty chứng khoán của chúng ta hiện nay theo mô hình đa năng hay mô hình chuyên doanh.

    Thứ năm, chuẩn hóa quy định về phá sản các loại chủ thể kinh doanh chứng khoán.

      Việc hoàn thiện hệ thống khung pháp lý về CTCK nhằm đảm bảo tuân thủ các cam kết quốc tế trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán là một yêu cầu và là một bước phát triển tất yếu. Đồng thời, cùng với việc Việt Nam tích cực tham gia hội nhập quốc tế thông qua việc tham gia, đàm phán, ký kết các hiệp định tự do hóa thương mại trong khu vực và trên thế giới, các cam kết quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng liên tục được cập nhật, bổ sung. Hy vọng thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ ngày càng đi lên và vững chắc hơn trong tương lai.


       Trên đây là toàn bộ câu trả lời của chúng tôi về vấn đề: Bình luận mức độ phù hợp của quy định hiện hành với cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến mô hình các chủ thể kinh doanh chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Nếu nội dung tư vấn còn chưa rõ, có nội dung gây hiểu nhầm hoặc có thắc mắc cần tư vấn cụ thể hơn, bạn có thể kết nối tới Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy để được tư vấn trực tiếp.

      Trân trọng./.


 

phone-call

GỌI HỎI ĐÁP MIỄN PHÍ

Scroll to Top