Phân tích quy định của pháp luật về điều kiện kinh doanh khi thành lập doanh nghiệp

Thành lập doanh nghiệp là một bộ phận quan trọng của pháp luật kinh doanh trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Vậy nên, bất kỳ sự thay đổi nào dù là nhỏ nào về vấn đề chuẩn bị thành lập một doanh nghiệp cũng sẽ có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến môi trường kinh doanh và tâm lý xã hội. Trong cơ chế kinh tế thị trường hiện nay, vấn đề xây dựng một hệ thống pháp luật về đăng ký thành lập doanh nghiệp là một bài toán nan giải cần tập trung nhiều sức lực để thực hiện. Nếu như không kịp thời khắc phục những bất cập hạn chế còn tồn đọng thì tiến tới sẽ kìm hãm sự phát triển của môi trường kinh doanh trong nước, lực lượng xã hội vẫn chưa được giải phóng. Với chủ trương phát triển kinh tế, Luật doanh nghiệp 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành đi vào áp dụng thực tế được coi là bước đột phá lớn nhất trong lĩnh vực pháp luật doanh nghiệp từ trước đến nay. Nó được thể hiện một phần qua quy định về các điều kiện thành lập doanh nghiệp.

Qua bài phân tích sau đây tổng đài tư vấn Luật Quang Huy chúng tôi xin giải quyết về vấn đề: “Phân tích quy định của pháp luật về điều kiện kinh doanh khi thành lập doanh nghiệp.”


Danh mục tài liệu tham khảo

  • Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam Trường Đại học Luật Hà Nội nhà xuất bản Tư pháp.
  •  Luật Doanh nghiệp năm 2014 nhà xuất bản Lao động.
  •  Luận văn thạc sĩ luật học -2016- Trần Thị Nguyệt Lệ -Đại học Luật Hà Nội: Thủ tục đăng ký doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 và thực tiễn thi hành tại thành phố Hà Nội.
  • Luận văn thạc sĩ luật học -2015- Vũ Thị Thùy Dung-Đại học Luật Hà Nội : Đăng ký thành lập doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 .
  • Luận văn thạc sĩ Luật học -2016- Nguyễn Thị Nga- Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội: Thủ tục đăng kí thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay
  •  Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp
  • Hướng dẫn học Luật thương mại Việt Nam, tập 1, (Tiến sĩ Nguyễn Thị Dung chủ biên)

Một số vấn đề khái quát chung

Doanh nghiệp là gì?

Theo khoản 7 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014: “Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh.”

Khái niệm thành lập doanh nghiệp

Về góc độ kinh tế: Thành lập doanh nghiệp là việc chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần và đủ để hình thành nên một tổ chức kinh doanh. Theo đó, nhà đầu tư phải chuẩn bị trụ sở, nhà xưởng, dây chuyền sản xuất, thiết bị kỹ thuật, đội ngũ nhân công, quản lý,…

Về góc độ pháp lý: Thành lập doanh nghiệp là một thủ tục pháp lý được thực hiện tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tùy thuộc vào loại hình mà thủ tục pháp lý này có tính đơn giản hay phức tạp không giống nhau

Ý nghĩa pháp lý của thành lập doanh nghiệp

Đối với nhà nước: Thành lập doanh nghiệp (TLDN) và đăng ký kinh doanh (ĐKKD) thể hiện sự bảo hộ của nhà nước bằng pháp luật đối với các chủ thể hoạt động kinh doanh nói chung và các chủ doanh nghiệp nói riêng. ĐKKD giúp nhà nước nắm bắt được các yếu tố kinh doanh, từ đó đưa ra các chính sách, biện pháp kịp thời và hợp lý. Có như vậy mới đảm bảo được một nền kinh tế hiện đại nhưng vẫn luôn bám sát đường lối, chủ trương của nhà nước đề ra.

Đối với chủ thể doanh nghiệp: Được thừa nhận về mặt pháp luật và có quyền tiến hành đăng ký kinh doanh dưới sự bảo vệ của luật pháp. Với việc pháp luật thừa nhận TLDN, nghĩa là từ nay doanh nghiệp có cơ sở pháp lý chắc chắn để yêu cầu nhà nước đảm bảo các quyền lợi chính đáng của mình để có thể yên tâm kinh doanh.

Đối với xã hội: Một khi đã đăng ký TLDN là khi đó công khai với công chúng về sự tồn tại của doanh nghiệp mình. Đó chính là cách thông báo rộng rãi đến xã hội, cũng là cách tìm kiếm khách hàng để cùng nhau hợp tác, phát triển.

Đối với kinh tế: Khi ĐKKD, TLDN thì doanh nghiệp với tư cách là một thành viên trong cơ cấu các thành phần kinh tế góp phần vào sự phát triển kinh tế chung của cả nước.

Như vậy, thành lập doanh nghiệp không chỉ là đảm bảo quyền lợi cho chủ thể doanh nghiệp mà còn góp phần đảm bảo trật tự quản lý nhà nước, đảm bảo quyền của các chủ thể khác. Chính vì vậy, có thể nói TLDN vừa là nhu cầu tất yếu vừa là đòi hỏi mang tính nghĩa vụ đối với mỗi doanh nghiệp trong sự phát triển kinh tế chung của cả nước.

Phân tích quy định của pháp luật về điều kiện kinh doanh khi thành lập doanh nghiệp
Phân tích quy định của pháp luật về điều kiện kinh doanh khi thành lập doanh nghiệp

Phân tích các quy định của luật doanh nghiệp 2014 về điều kiện thành lập doanh nghiệp

Điều kiện về chủ thể

Điều kiện về chủ thể thành lập doanh nghiệp được quy định tại Khoản 2 Điều 18 Luật Doanh nghiệp 2014.Theo đó các tổ chức cá nhân có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam khi không thuộc các trường hợp quy định sau:

“a) Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình;

b) Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức;

c) Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam, trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp;

d) Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong doanh nghiệp nhà nước, trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác;

đ) Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự; tổ chức không có tư cách pháp nhân;

e) Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chấp hành hình phạt tù, quyết định xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc đang bị cấm hành nghề kinh doanh, đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định, liên quan đến kinh doanh theo quyết định của Tòa án; các trường hợp khác theo quy định của pháp luật về phá sản, phòng, chống tham nhũng.

Trường hợp Cơ quan đăng ký kinh doanh có yêu cầu, người đăng ký thành lập doanh nghiệp phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh.”

Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân là hệ thống các cơ quan công quyền, hoạt động dựa trên kinh phí Nhà nước cấp. Việc pháp luật quy định các chủ thể này không được tham gia góp vốn thành lập doanh nghiệp là nhằm đảm bảo minh bạch trong việc sử dụng ngân sách nhà nước, đồng thời góp phần ngăn chặn các hành vi tham nhũng gây thiệt hại cho nguồn ngân sách nước nhà. Điều chúng ta cần nhấn mạnh ở đây là luật không cho phép các cơ quan đơn vị này dùng tài sản chung để kinh doanh, thu lợi riêng cho cơ quan mình. Đó là hành vi thu lợi bất bất chính.

Cán bộ công chức, viên chức cũng không được phép thành lập doanh nghiệp. Sở dĩ có quy định như vậy là vì các đối tượng nêu trên đều được trả lương từ ngân sách và đang đảm nhiệm công việc công, nên không thể dành thời gian thực hiện hoạt động kinh doanh mang tính chất “tư”. Bên cạnh đó, pháp luật quy định những người này không được thành lập doanh nghiệp để tránh cán bộ, công chức lạm quyền, phòng ngừa khả năng vì lợi ích tư mà lạm dụng quyền hạn của mình để để làm phương hại đến lợi ích chung của nhà nước và xã hội.

Người chưa thành niên, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc mất năng lực hành vi dân sự, tổ chức không có tư cách pháp nhân cũng là đối tượng không được phép thành lập doanh nghiệp. Đối với người chưa thành niên, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của họ sẽ bị hạn chế. Nếu để họ tham gia vào môi trường kinh doanh sẽ gây thiệt hại cho chính bản thân những người đó đầu tiên, ngoài ra còn ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ thể khác. Tương tự tổ chức không có tư cách pháp nhân, tức là tổ chức không được thành lập hợp pháp, không có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, không có tài sản độc lập và không tự chịu trách nhiệm bằng tài sản thì không thể thành lập doanh nghiệp, Bởi tổ chức đó không thể thực hiện các nghĩa vụ tài chính, thanh toán các khỏn nợ khi kinh doanh thua lỗ. Pháp luật nghiêm cấm những chủ thể trên không được thành lập doanh nghiệp vì nếu thành lập doanh nghiệp sẽ dẫn tới nguy cơ hoạt động của doanh nghiệp không được đảm bảo.

Những người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chấp hành hình phạt tù, quyết định xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc là những người bị tước hoặc hạn chế một số quyền nên nếu học thành lập doanh nghiệp sẽ không có đủ điều kiện để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của họ. Khi xảy ra tranh chấp nợ nần, những chủ thể này không đứng ra giải quyết được. Đối với người bị Tòa án tuyên cấm hành nghề kinh doanh, đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định liên quan đến kinh doanh, đây là hình phạt đối với người kinh doanh không trung thực, nếu để họ thành lập doanh nghiệp sẽ gây nguy hại cho xã hội.

So với Luật Doanh nghiệp năm 2005, quy định về điều kiện chủ thể được thành lập doanh nghiệp đã cụ thể, rõ ràng hơn, phạm vi những chủ thể bị cấm thành lập doanh nghiệp mở rộng hơn, nhằm nâng cao chất lượng doanh nghiệp ngay từ khâu thành lập ban đầu, giúp các nhà đầu tư tự nhận thức được quyền năng của mình để tiến hành thành lập doanh nghiệp một cách đúng pháp luật.

Điều kiện về vốn

Mục đích của Doanh nghiệp là kinh doanh để tìm kiếm lợi nhuận, do đó doanh nghiệp phải có vốn. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp hình thành từ các nguồn khác nhau như do các thành viên đóng góp, do doanh nghiệp tích lũy được trong quá trình hoạt động…Vốn có thể bằng tiền Việt Nam, ngoại tệ hoặc các tài sản khác.

Điều kiện về vốn kinh doanh thể hiện dưới hình thức vốn pháp định. Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có do pháp luật quy định đối với một số ngành, nghề kinh doanh được quy định trong pháp luật chuyên ngành như pháp luật về kinh doanh bảo hiểm, pháp luật chứng khoán, pháp luật về các tổ chức tín dụng… Vốn pháp định không đặt ra với mọi ngành nghề kinh doanh mà chỉ áp dụng với một số ngành nghề mà pháp luật quy định. Điều này có nghĩa là Nhà nước sẽ đặt ra mức sàn tối thiểu về vốn đối với một số ngành nghề cụ thể và nhà đầu tư phải đáp ứng số vốn đó thì mới được thành lập doanh nghiệp và hoạt động trong ngành nghề đó. Nó giúp cho doanh nghiệp sau khi ra đời có thể hoạt động bình thường, đồng thời là cơ sở đảm bảo các khoản vay vốn ngân hàng và các khoản thanh toán với các chủ nợ khác. Nó thúc đẩy các nhà đầu tư tập trung kinh doanh, không lo nhiều về vốn, đồng thời tạo tâm lý an tâm cho các đối tác khi hợp tác kinh doanh cùng với doanh nghiệp hơn. Với ý nghĩa quan trọng, việc quy định vốn pháp định của nhà nước phù hợp với mục tiêu bảo vệ lợi ích hợp pháp của các chủ thể khi tham gia giao dịch.

Luật Doanh nghiệp năm 2014 áp dụng thống nhất thời hạn phải thanh toán đủ và đúng loại tài sản như đã cam kết tại thời điểm đăng kí thành lập đối với chủ sở hữu, thành viên, cổ đông là trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp; đối với công ty cổ phần thời hạn cổ đông phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng kí mua có thể ngắn hơn nếu điều lệ công ty hoặc hợp đồng đăng kí mua cổ phần quy định một thời hạn khác ngắn hơn. Quy định của Luật DN năm 2014 đã rút ngắn thời hạn góp vốn đối với thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên so với quy định tại khoản 1 Điều 18 Nghị định của Chính phủ số 102/2010/NĐ-CP ngày 1/10/2010 hướng dẫn chi tiết quy định một số điều của Luật DN. Theo đó, thời hạn góp vốn tối đa đối với thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn từ hai thành viên trở lên không vượt quá 36 tháng kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp.

Điều kiện về ngành nghề kinh doanh

Ngành nghề kinh doanh là yếu tố được rà soát khi thực hiện thủ tục thành lập doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh khi ngành nghề kinh doanh không thuộc danh mục bị cấm kinh doanh.

Như vậy, Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã ghi nhận và cụ thể hoá nguyên tắc về quyền tự do kinh doanh của nhà đầu tư tại Điều 7 Luật DN năm 2014 theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013 quy định mọi người có quyền tự do kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Theo đó, nhà đầu tư được tự do kinh doanh trong ngành nghề mà pháp luật không cấm kinh doanh thay cho quyền chỉ được kinh doanh những ngành nghề được ghi trong giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh như quy định của Luật DN năm 2005. Đây là một trong những quy định mới quan trọng mang tính đột phá.

Xác định được ngành nghề kinh doanh cho doanh nghiệp rất quan trọng vì ngoài thủ tục đăng ký kinh doanh thông thường, ở một số loại ngành nghề, các nhà đầu tư còn phải xin thêm giấy phép kinh doanh, phải có chứng chỉ hành nghề, hoặc phải đáp ứng thêm một số điều kiện đặc thù của ngành nghề đó mà pháp luật quy định cũng như phải thực hiện đúng các điều kiện đó trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh.

Hiện nay pháp luật doanh nghiệp quy định ba loại hình của ngành nghề kinh doanh chính mà đòi hỏi nhà đầu tư phải thỏa mãn thêm một số yêu cầu đối với việc đăng ký kinh doanh, đó là: Các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện; Các ngành, nghề kinh doanh phải có vốn pháp định; Các ngành, nghề kinh doanh phải có chứng chỉ hành nghề.

Theo Khoản 1 Điều 6 Luật đầu tư 2014, có các ngành nghề bị cấm kinh doanh ở Việt Nam như sau

1.Cấm các hoạt động đầu tư kinh doanh sau đây

a) Kinh doanh các chất ma túy theo quy định tại Phụ lục 1 của Luật này;

b) Kinh doanh các loại hóa chất, khoáng vật quy định tại Phụ lục 2 của Luật này;

c) Kinh doanh mẫu vật các loại thực vật, động vật hoang dã theo quy định tại Phụ lục 1 của Công ước về buôn bán quốc tế các loài thực vật, động vật hoang dã nguy cấp; mẫu vật các loại động vật, thực vật hoang dã nguy cấp, quý hiếm Nhóm I có nguồn gốc từ tự nhiên theo quy định tại Phụ lục 3 của Luật này;

d) Kinh doanh mại dâm;

đ) Mua, bán người, mô, bộ phận cơ thể người;

e) Hoạt động kinh doanh liên quan đến sinh sản vô tính trên người

Đồng thời, Luật đầu tư hiện hành cũng đã quy định 267 danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện trong nước. Có thể kể đến như kinh doanh các loại pháo, dịch vụ bảo vệ, sản xuất con dấu, dịch vụ cầm đồ, xoa bóp,kinh doanh dịch vụ đòi nợ, xăng dầu, rượu, xuất khẩu gạo..v.v…

Đây là những ngành nghề kinh doanh mà ít nhiều đe doạ đến lợi ích nhà nước và cộng đồng. Đối với ngành nghề mà pháp luật về đầu tư và luật khác có liên quan yêu cầu phải có điều kiện thì doanh nghiệp chỉ được đăng ký kinh doanh khi đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định. Điều kiện kinh doanh là yêu cầu mà doanh nghiệp phải có hoặc phải thực hiện . Nó thể hiện bằng giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, yêu cầu về vốn pháp đinh hoặc một số yêu cầu khác.

Đối với các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện thì tùy từng ngành, nghề kinh doanh mà doanh nghiệp sẽ được yêu cầu phải:

Xin giấy phép kinh doanh do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho ngành nghề kinh doanh đó (ví dụ như đối với ngành sản xuất phim, doanh nghiệp phải có giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh do Cục Điện ảnh cấp trước khi làm thủ tục đăng ký kinh doanh);

Đáp ứng các quy định về tiêu chuẩn vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm; quy định về phòng cháy, chữa cháy, trật tự xã hội, an toàn giao thông và quy định về các yêu cầu khác đối với hoạt động kinh doanh tại thời điểm thành lập và trong suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp (ví dụ như kinh doanh vũ trường, karaoke).

Đối với ngành nghề kinh doanh phải có chứng chỉ hành nghề thì tùy theo từng loại hình doanh nghiệp mà chủ sở hữu hoặc người quản lý doanh nghiệp phải có chứng chỉ hành nghề.

Ví dụ: kinh doanh dịch vụ pháp lý, kiểm toán, kế toán,…Đây là những ngành nghề đặc thù, đòi hỏi năng lực chuyên môn cao, được công nhận về mặt pháp lý, không thể hoạt động tùy tiện. Vì vậy, nhà đầu tư trong lĩnh vực ngành nghề này phải đồng thời đáp ứng thêm yêu cầu về chứng chỉ hành nghề hợp pháp. Nó đảm bảo cho việc kinh doanh của công ty là hiệu quả, có căn cứ đáng tin cậy, không làm ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh và xã hội.

Điều kiện về tên doanh nghiệp.

Đặt tên cho doanh nghiệp cũng như đặt tên cho đứa con tinh thần của mình. Nó là thương hiệu của doanh nghiệp, mà từ nó có thể mang đến thành công hay thất bại cho doanh nghiệp.

Điều 38, 39 40, 41, 42 Bộ luật doanh nghiệp quy định chi tiết về việt đặt tên doanh nghiệp để đảm bảo pháp luật sở hữ trí tuệ như sau:

Tên doanh nghiệp phải được viết bằng các chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Việt, các chữ F, J, Z, W, chữ số và ký hiệu.

Tên loại hình doanh nghiệp được viết là “công ty trách nhiệm hữu hạn” hoặc “công ty TNHH” đối với công ty trách nhiệm hữu hạn; được viết là “công ty cổ phần” hoặc “công ty CP” đối với công ty cổ phần; được viết là “công ty hợp danh” hoặc “công ty HD” đối với công ty hợp danh; được viết là “doanh nghiệp tư nhân”, “DNTN” hoặc “doanh nghiệp TN” đối với doanh nghiệp tư nhân;

Tên doanh nghiệp phải được gắn tại trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp. Tên doanh nghiệp phải được in hoặc viết trên các giấy tờ giao dịch, hồ sơ tài liệu và ấn phẩm do doanh nghiệp phát hành.

Không được đặt tên trùng hoặc tên gây nhầm lẫn với tên của doanh nghiệp đã đăng ký.

Không sử dụng tên cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tên của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp để làm toàn bộ hoặc một phần tên riêng của doanh nghiệp, trừ trường hợp có sự chấp thuận của cơ quan, đơn vị hoặc tổ chức đó.

Không sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc.

Sở dĩ pháp luật quy định này nhằm mục đích đảm bảo cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp sau khi thành lập. Tránh trường hợp nhầm lẫn về tên ảnh hưởng đến uy tín, hoạt động của các doanh nghiệp có liên quan. Đồng thời nó cũng giúp cho việc quản lý các daonh nghiệp trên cả nước được thực hiện dễ dàng, hiệu quả hơn.

Điều kiện kinh doanh về hồ sơ đăng ký doanh nghiệp

Hồ sơ đăng ký kinh doanh là những khai báo về bản thân chủ đầu tư và do chính họ lập ra do đó pháp luật quy định cho họ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của nội dung hồ sơ đăng ký doanh nghiệp trong quá trình đăng ký doanh nghiệp và trong suốt thời gian doanh nghiệp hoạt động. Để việc đăng ký thành lập doanh nghiệp được hoàn thiện và hợp pháp các chủ thể còn phải tuân thủ các quy định về điều kiện trong hồ sơ, bao gồm điều kiện về ngành nghề kinh doanh, vấn đề đặt tên doanh nghiệp,…quy định tại khoản 1 Điều 28 Luật Doanh nghiệp 2014.

Hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp phải đầy đủ các loại giấy tờ hợp pháp cho việc sắp ra đời một doanh nghiệp mới theo quy định của luật. Mọi vấn đề sai sót, thiếu các loại giấy tờ hồ sơ đều phải được khắc phục, thay đổi, chỉnh sửa sao cho phù hợp. Tùy từng loại hình doanh nghiệp mà các nhà đầu tư cần chuẩn bị đúng nội dung hồ sơ, thông tin cần thiết để việc thành lập công ty được nhanh chóng, thuận tiện nhất. So với Luật doanh nghiệp 2005, hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp đã có sự thay đổi. Đó là việc bỏ hai loại văn bản xác nhận vốn pháp định và bản sao hợp lệ chứng chỉ hành nghề trong hồ sơ nộp tại cơ quan đăng ký kinh doanh. Các loại giấy tờ này không còn được quản lý bởi cơ quan đăng ký kinh doanh nữa mà chuyển qua cho các cơ quan chuyên ngành. Nó giúp cho việc xác định điều kiện thành lập công ty của các chủ thể chính xác, khách quan hơn.


Một số điểm bất cập về điều kiện đăng ký doanh nghiệp và kiến nghị giải pháp

Thứ nhất, Khoản 2 Điều 18 LDN 2014 quy định: “Trường hợp Cơ quan đăng ký kinh doanh có yêu cầu, người đăng ký thành lập doanh nghiệp phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh”. Tuy nhiên trong luật cũng như các nghị định liên quan đều chưa nêu rõ trường hợp nào cơ quan đăng ký kinh doanh được quyền yêu cầu? Điều này dẫn đến tình trạng các cơ quan có thẩm quyền ở mỗi địa hương tự ý yêu cầu đòi hỏi, gây khó khăn cho người muốn thành lập doanh nghiệp. Hoặc cũng có những trường hợp cơ quan đăng ký kinh doanh làm việc thiếu trách nhiệm khiến cho việc thành lập công ty của một số đối tượng không hợp pháp. Cho nên, chúng ta cần có thêm quy định cụ thể chi tiết, hướng dẫn việc lúc nào thì cơ quan đăng ký doanh nghiệp cần yêu cầu phiếu lý lịch tư pháp để tránh tình trạng tùy tiện, lạm quyền.

Phân tích quy định của pháp luật về điều kiện kinh doanh khi thành lập doanh nghiệp

Thứ hai, Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã bỏ hẳn Điều 7 của Luật Doanh nghiệp 2005. Hiện tại, những điều kiện kinh doanh và số lượng ngành, nghề kinh doanh có điều kiện theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 đã giảm đi rất nhiều. Nhưng theo quy định của Luật Đầu tư năm 2014 thì còn tới 267 ngành, nghề kinh doanh có điều kiện. Theo thống kê cho thấy có khoảng 386 ngành, nghề kinh doanh có điều kiện được quy định phân tán tại 391 văn bản pháp luật. Vì vậy, để tránh sự mâu thuẫn trong việc thực hiện thủ tục đăng ký ngành nghề kinh doanh và đăng ký kinh doanh cần phải xem xét bỏ yêu cầu phải làm thủ tục khai báo đối với ngành nghề tự do kinh doanh.

Thứ ba, trên thực tế việc áp dụng pháp luật về điều kiện vốn pháp định của một số doanh nghiệp vẫn còn nhiều bất cập. Thứ nhất, thực chất không có căn cứ xác đáng để xác định mức vốn pháp định đối với tất cả các ngành nghề kinh doanh theo luật định. Thứ hai, việc quy định phải có vốn tối thiểu bằng vốn pháp định mới có đủ điều kiện thành lập doanh nghiệp, điều này có mâu thuẫn với chủ trương huy động mọi nguồn lực để phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước. Thứ ba, trên thực tế không có một văn bản nào quy định rõ về cơ quan có thẩm quyền xác nhận vốn pháp định, quản lý và giám sát vốn pháp định của doanh nghiệp trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh. Hiện nay, vốn pháp định chỉ áp dụng với một số ngành nghề cụ thể.

Vì vậy, việc hoàn thiện, bổ sung thêm các chỉ dẫn, hướng dẫn chi tiết các vấn đề trên là rất quan trọng nhằm hạn chế nhất tình trạng lách luật, không tuân thủ luật trong kinh doanh.

Luật Doanh nghiệp 2014 với mục tiêu làm cho doanh nghiệp trở thành một công cụ kinh doanh rẻ hơn, an toàn hơn và hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư, qua đó tăng cường thu hút và huy động hơn nữa mọi nguồn lực và vốn đầu tư vào sản xuất – kinh doanh; tạo môi trường thuận hơn cho hoạt động thành lập doanh nghiệp; đối xử bình đẳng về thủ tục giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài; tạo thuận lợi, giảm chi phí cho tổ chức quản trị doanh nghiệp, cơ cấu lại doanh nghiệp; Luật doanh nghiệp 2014 đã sửa đổi, bổ sung nhiều điểm mới nhằm tháo gỡ những hạn chế của Luật Doanh nghiệp 2005. Trong đó, các nhà làm luật cũng đã hoàn thiện hơn về các điều kiện khi thành lập doanh nghiệp mà các chủ thể cần phải đáp ứng. Qua đó, các nhà đầu tư kinh doanh có cơ sở, hành lang pháp lý rõ ràng để tham gia vào môi trường kinh doanh một cách hợp pháp, hiệu quả.


Trên đây là phần giải đáp thắc mắc của chúng tôi về vấn đề: Quy định của pháp luật về điều kiện kinh doanh khi thành lập doanh nghiệp. Nếu trong quá trình giải quyết còn gì thắc mắc bạn có thể liên hệ chúng tôi qua Tổng đài tư vấn luật trực tuyến qua HOTLINE 19006588 của Luật NQH Việt Nam để được giải đáp.

Trân trọng./.

phone-call

GỌI HỎI ĐÁP MIỄN PHÍ

Scroll to Top