Bình luận những quy định của pháp luật Việt Nam (bộ luật dân sự 2015) trong việc giải quyết xung đột pháp luật về sở hữu có yếu tố nước ngoài

Bình luận về Giải quyết xung đột Pháp luật về sở hữu có yếu tố nước ngoài

Trình độ phát triển về kinh tế, văn hóa xã hội, phong tục tập quán của mỗi quốc gia là khác nhau, kéo theo đó là chế độ lập pháp cũng khác nhau. Chế chịnh về quyền sở hữu của hệ thống pháp luật có sự khác nhau, làm phát sinh xung đột về quyền sở hữu. Vậy pháp luật Việt Nam giải quyết xung đột pháp luật về sở hữu có yếu tố nước ngoài như thế nào? Bài làm dưới đây của em sẽ làm rõ vấn đề này.

Do còn hạn chế về mặt kiến thức cũng như kinh nghiệm nên bài làm không thể tránh khỏi sai sót mong Quý thầy cô chỉ bảo nhiều hơn.Với bài viết sau đây chúng tôi sẽ giải đáp vấn đề: Bình luận những quy định của pháp luật Việt Nam (bộ luật dân sự 2015) trong việc giải quyết xung đột pháp luật về sở hữu có yếu tố nước ngoài.


Danh mục tài liệu tham khảo:

  • Giáo trình Tư pháp quốc tế. Trường đại học Luật Hà Nội. NXB Công an nhân dân;
  • Tư pháp quốc tế Việt Nam. TS Đỗ Văn Đại – PGS. TS. Mai Hồng Quỳ. Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. NXB Chính trị Quốc gia;
  • Giáo trình Luật dân sự Việt Nam (tập 2). Trường đại học Luật Hà Nội. NXB Công an nhân dân;
  • Bộ luật dân sự 2015;
  • Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Vũ Thị Phương Lan, Phần thứ năm Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội (2017), tr. 1067;

Lý luận chung

Khái niệm về quan hệ sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài

Quyền sở hữu trong tư pháp quốc tế là quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài, là tổng hợp các quyền năng của các chủ thể được pháp luật thừa nhận trong quá trình chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản. Theo điều 663 BLDS 2015 thì yếu tố nước ngoài trong quan hệ sở hữu tư pháp quốc tế Việt Nam được thể hiện ở những điểm sau:

  • Có ít nhất một trong các bên tham gia quan hệ sở hữu là cá nhân, pháp nhân nước ngoài;
  • Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ sở hữu đó xảy ra tại nước ngoài;
  • Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ sở hữu đó ở nước ngoài.

Phương pháp giải quyết các xung đột pháp luật

Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật là cách thức giải quyết vấn đề khi có tình huống hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các nước khác nhau cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ tư pháp quốc tế.

Để giải quyết thực tế hết sức phức tạp này, mỗi phương pháp cần thiết phải có các công cụ nhất định, và các công cụ của luật pháp chính là các quy phạm pháp luật. Như vậy có nghĩa là các phương pháp điều chỉnh khác nhau sẽ sử dụng các loại quy phạm pháp luật không giống nhau. Căn cứ vào các quy định của pháp luật cũng như thực tiễn thì xung đột pháp luật sẽ được giải quyết bằng các phương pháp sau:

  • Phương pháp xung đột: Phương pháp xung đột trong Tư pháp quốc tế là phương pháp được hình thành khá sớm, được hình thành và xây dựng trên nền tảng hệ thống quy phạm xung đột của quốc gia và hệ thống quy phạm xung đột trong điều ước quốc tế. Điều này có nghĩa là cơ quan có thẩm quyền giải quyết phải chọn pháp luật của nước này hay nước kia liên đới tới các yếu tố nước ngoài để xác định quyền và nghĩa vụ giữa các bên đương sự. Công việc tiến hành lựa chọn hệ thống pháp luật nước nào dựa trên những quy phạm xung đột. Quy phạm xung đột về quan hệ sở hữu tài sản là quy phạm ấn định luật pháp nước nào cần áp dụng để giải quyết quan hệ sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài trong một tình huống thực tế.
  • Phương pháp thực chất: Phương pháp thực chất là phương pháp dùng quy phạm thực chất, trực tiếp điều chỉnh quan hệ mà không cần qua bất kì một khâu trung gian nào, điều này có nghĩa là nó trực tiếp phân định quyền và nghĩa vụ rõ ràng giữa các bên tham gia. Pháp luật điều chỉnh quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài bằng quy phạm thực chất, tức là quy định người nước ngoài có quyền sở hữu những loại tài sản gì, cho phép họ sử dụng quyền (chiếm hữu, sử dụng, định đoạt) đối với tài sản ra sao. Giải quyết xung đột pháp luật về sở hữu có yếu tố nước ngoài
Bình luận về Giải quyết xung đột Pháp luật về sở hữu có yếu tố nước ngoài
Bình luận về Giải quyết xung đột Pháp luật về sở hữu có yếu tố nước ngoài

Bình luận quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam trong việc giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài

Xung đột pháp luật về quan hệ sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài Việt Nam cũng như các nước trên thế giới đều sử dụng phương pháp xung đột và phương pháp thực chất dựa trên các quy phạm xung đột và quy phạm thực chất.

Quy phạm xung đột

Xét dưới khía cạnh về xung đột pháp luật thì điều chỉnh quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài có nhiều điểm khác, không giống như điều chỉnh quan hệ sở hữu không có yếu tố nước ngoài.

Như đã phân tích ở trên, đa số các nước hiện nay đều thống nhất áp dụng nguyên tắc chung để giải quyết quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài (như là tài sản đó có là đối tượng của quyền sở hữu hay không, xác định các quyền tài sản, xác định sự phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu,…) đó là việc áp dụng pháp luật nơi có tài sản. Luật nơi có tài sản (Lex rei sitae) được hiểu là vật (tài sản) hiện đang tồn tại ở nước nào thì luật của nước đó áp dụng đối với tài sản đó.

Bộ luật dân sự Việt Nam cũng dựa trên nguyên tắc chung này để giải quyết xung đột về quan hệ sở hữu tại sản, quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 678 BLDS Việt Nam năm 2015: “Việc xác lập,thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này”.

Như vậy, không phụ thuộc vào đối tượng của quan hệ sở hữu là động sản hay bất động sản, quyền sở hữu và các quyền tài sản khác sẽ do luật nơi có tài sản điều chỉnh. Xét về mặt lý luận, Điều 678 BLDS 2015 điều chỉnh quan hệ sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài bằng phương pháp xung đột, lấy hệ thuộc luật nơi có vật làm căn cứ phát sinh quyền sở hữu tài sản, cũng như nội dung quyền sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài.

Đương nhiên, trong trường hợp tài sản – đối tượng của quyền sở hữu – có tại Việt Nam, thì việc xác định quyền sở hữu đối với tài sản đó phải tuân theo pháp luật Việt Nam, không phụ thuộc vào yếu tố quốc tịch, nơi cư trú của chủ sở hữu.

Để giải quyết vấn đề xung đột pháp luật về quyền sở hữu đối với tài sản là bất động sản, pháp luật của hầu hết các quốc gia đều ghi nhận nguyên tắc áp dụng luật của nước nơi có tài sản. Tuy nhiên, vấn đề nảy sinh đó là nếu đối với cùng một tài sản mà quốc gia này cho là động sản nhưng quốc gia khác lại quy định là bất động sản thì sẽ giải quyết như thế nào? Hai khái niệm “động sản” và “bất động sản” chưa được hiểu một cách thống nhất trong hệ thống pháp luật hiện nay của thế giới.

Từ đây phát sinh quy phạm xung đột pháp luật trong vấn đề định danh tài sản. Việc xác định tài sản là động sản hay bất động sản là tiền đề cho việc giải quyết xung đột về quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài.

Pháp luật của đa số các nước và các điều ước quốc tế thường ghi nhận luật nơi có tài sản là hệ thuộc để giải quyết xung đột về định danh tài sản. Việt Nam cũng không nằm ngoài số đó, Điều 677 Bộ luật dân sự Việt Nam 2015 cũng quy định như sau: “Việc phân biệt tài sản là động sản hoặc bất động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tải sản”.

Theo quy định tại Khoản 2 điều 678 của Bộ luật dân sự 2015 thì “quyền sở hữu và quyền khác đối vớ tài sản là động sản trên đường vận chuyển được xác định theo pháp luật của nước nơi có động sản được chuyển đến, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Như vậy, pháp luật Việt Nam áp dụng hệ thuộc luật của nước do các bên thỏa thuận lựa chọn, chỉ khi không có sự thỏa thuận thì mới áp dụng hệ thuộc luật nơi có tài sản được chuyển đến.

Có thể nói, việc lựa chọn hệ thuộc luật nơi có tài sản được chuyển đến là quy định khá đặc thù của Bộ luật dân sự Việt Nam. Sở dĩ, có nhận xét như vậy là vì có nhiều nước trên thế giới sử dụng hệ thuộc luật nơi có động sản được chuyển đi, hay còn gọi là luật nước người bán.

Lý do để các nước lựa chọn hệ thuộc luật nơi có động sản được chuyển đi là bởi vì hầu hết các nước này đều là những nước có nền kinh tế cũng như việc xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài phát triển, khi quy định như thế, các nước này đã tính đến lợi ích mà họ có thể có được trong quan hệ hợp đồng.

Còn đối với Việt Nam, tính cho đến thời điểm này và sẽ là một thời gian dài nữa trong tương lại vẫn là một nước có tỷ lệ nhập khẩu cao hơn tỷ lệ xuất khẩu nên giá trị hàng hóa tới Việt Nam sẽ lớn hơn giá trị hàng hóa từ Việt Nam đi, vì thế nếu quy định lựa chọn luật nước người bán để áp dụng sẽ gây nhiều bất lợi cho cá nhân, cơ quan tổ chức trong nước.

Nếu các bên không thỏa thuận chọn pháp luật áp dụng thì pháp luật của nước nơi có tài sản được chuyển đến sẽ được áp dụng. Ở đây điều luật đã không xây dựng theo hướng áp dụng luật nơi có tài sản là hệ thuộc luật điển hình điều chỉnh các quan hệ sở hữu đối với tài sản. Bởi nếu áp dụng hệ thuộc luật nơi có tài sản thì cơ quan có thẩm quyền rât khó khăn trong việc xác định vi trí tồn tại của tài sản nhất là khi đó là tài sản di động.

Kể cả trong trường hợp xác định được địa điểm tồn tại của tài sản thì hệ thuộc luật nơi có tài sản cũng sẽ tạo sự thiếu ổn định cho việc điều chỉnh quan hệ, vì ngay cả các bên tham gia quan hệ cũng như cơ quan có thẩm quyền sẽ rất bị động, xa lạ với vị trí đó , với pháp luật nước đó. Do vậy, thay vì hệ thuộc luật nước nơi có tài sản thì hệ thuộc luật của nước nơi có tài sản chuyển đến sẽ được áp dụng để giải quyết vấn đề sở hữu đối với tài sản là động sản trên đường vận chuyển.

Ngoài ngoại lệ liên quan đến tài sản đang trên đường vận chuyển, pháp luật Việt Nam hiện hành còn quy định riêng về pháp luật áp dụng với quyền sở hữu và quyền khác đối với tàu bay, tàu biển. Bộ luật Dân sự năm 2005 đã quy định rõ ngoại lệ này tại khoản 4 Điều 766.

Nhưng quy định này đã được lược bỏ, không cần nhắc lại hay dẫn chiếu thêm trong Bộ luật Dân sự năm 2015 vì đã điều chỉnh tại văn bản pháp luật chuyên ngành. Cụ thể, theo khoản 1 Điều 3 Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015 thì:

“Trường hợp quan hệ pháp luật liên quan đến quyền sở hữu tài sản trên tàu biển (…) các vụ việc xảy ra trên tàu biển khi tàu đang ở vùng biển quốc tế thì áp dụng pháp luật của quốc gia mà tàu biển mang cờ quốc tịch”; khoản 1 Điều 4 Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006 (sửa đổi năm 2014) quy định:

  • “Pháp luật của quốc gia đăng ký quốc tịch tàu bay được áp dụng đối với quan hệ xã hội phát sinh trong tàu bay đang bay và áp dụng để xác định các quyền đối với tàu bay”.

Như vậy, đối với quyền sở hữu tài sản trên tàu biển sẽ theo pháp luật của quốc gia mà tàu biển mang cờ quốc tịch, còn quyền sở hữu và quyền khác đối với tàu bay cũng như quan hệ về quyền sở hữu phát sinh trong tàu bay sẽ theo pháp luật của quốc gia nơi đăng ký tàu bay. Sự cắt bỏ này được đánh giá là điều hợp lý “vừa không trùng lặp, vừa đảm bảo sự thống nhất trong toàn bộ bộ luật và vì vậy sự cắt bỏ này hoàn toàn không ảnh hưởng đến việc điều chỉnh quan hệ phát sinh”

Như vậy, đối với quan hệ sở hữu và quan hệ tài sản trong lĩnh vực hàng không dân dụng và hàng hải quốc tế hệ thuộc luật của nước nơi có tài sản không áp dụng mà thay vào đó là hệ thuộc luật quốc kỳ (lex banderae) hoặc luật nơi đăng kí (lex libri).

Quy phạm thực chất

Nếu chỉ giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ sở hữu dưới khía cạnh quy phạm xung đột thì sẽ không đầy đủ, không toàn diện. Hiệu quả của cơ chế điều chỉnh pháp luật là ở tính khả thi của các quy phạm pháp luật, trong đó quy phạm thực chất đóng vai trò quan trọng. Trên cơ sở đó, việc phân tích về cơ sở pháp lý và việc đảm bảo quyền sở hữu tại Việt Nam đối với người nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài là rất cần thiết.

Bộ luật dân sự 2015 là đạo luật quan trọng, cụ thể hóa quyền dân sự cơ bản nói chung và quyền sở hữu nói riêng. Đối với quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài, Bộ luật dân sự điều chỉnh một cách trực tiếp cũng như gián tiếp thông qua các quy định sau đây:

Nguyên tắc xác định pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài

Điều 664 Bộ luật dân sự 2015 quy định về nguyên tắc xác định pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài như sau:

“1. Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc luật Việt Nam.

  • Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc luật Việt Nam có quy định các bên có quyền lựa chọn thì pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định theo lựa chọn của các bên.
  • Trường hợp không xác định được pháp luật áp dụng theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đó.”

Theo đó nguyên tắc xác định pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài theo Bộ luật dân sự năm 2015 được xác định như sau: trước hết các bên cần áp dụng Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc Luật Việt Nam.

Trong trường hợp Điều ước quốc tế hoặc luật Việt Nam quy định các bên có quyền lựa chọn thì pháp luật được áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định theo lựa chọn của các bên hoặc các bên có thể lựa chọn áp dụng tập quán quốc tế nếu hậu quả của việc áp dụng không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.

Trường hợp không xác định pháp luật áp dụng trong các trường hợp trên thì áp dụng pháp luật có mối liên hệ gắn bó nhất với quan hệ đó. Việc xác định nước có quan hệ gắn bó với hợp đồng được quy định tại khoản 2 điều 683 Bộ luật dân sự 2015:

“2. Pháp luật của nước sau đây được coi là pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng:

a) Pháp luật của nước nơi người bán cư trú nếu là cá nhân hoặc nơi thành lập nếu là pháp nhân đối với hợp đồng mua bán hàng hóa;

b) Pháp luật của nước nơi người cung cấp dịch vụ cư trú nếu là cá nhân hoặc nơi thành lập nếu là pháp nhân đối với hợp đồng dịch vụ;

c) Pháp luật của nước nơi người nhận quyền cư trú nếu là cá nhân hoặc nơi thành lập nếu là pháp nhân đối với hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng hoặc chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ;

d) Pháp luật của nước nơi người lao động thường xuyên thực hiện công việc đối với hợp đồng lao động. Nếu người lao động thường xuyên thực hiện công việc tại nhiều nước khác nhau hoặc không xác định được nơi người lao động thường xuyên thực hiện công việc thì pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng lao động là pháp luật của nước nơi người sử dụng lao động cư trú đối với cá nhân hoặc thành lập đối với pháp nhân;

đ) Pháp luật của nước nơi người tiêu dùng cư trú đối với hợp đồng tiêu dùng.”

Bình luận về Giải quyết xung đột Pháp luật về sở hữu có yếu tố nước ngoài
Bình luận về Giải quyết xung đột Pháp luật về sở hữu có yếu tố nước ngoài

Những quy định về các trường hợp không áp dụng pháp luật nước ngoài

Liên quan đến vấn đề này, Điều 670 Bộ luật dân sự 2015 quy định:

“1. Pháp luật nước ngoài được dẫn chiếu đến không được áp dụng trong trường hợp sau đây:

a) Hậu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam;

b) Nội dung của pháp luật nước ngoài không xác định được mặc dù đã áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng.”

Bên cạnh đó Bộ luật dân sự 2015 cũng quy định rõ tại khoản 2 Điều 670 về việc không áp dụng pháp luật nước ngoài trong các trường hợp nêu trên như sau “Trường hợp pháp luật nước ngoài không được áp dụng theo quy định tại khoản 1 Điều này thì pháp luật Việt Nam được áp dụng”. Quy định này nhằm tăng khả năng áp dụng pháp luật Việt Nam cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.

Quy định về việc áp dụng pháp luật nước ngoài, áp dụng pháp luật của nước có nhiều hệ thống pháp luật:

Khoản 3 Điều 4 Nghị định số 138/2006/NĐ-CP ngày 15/11/2006 quy định chi tiết thi hành các quy định của Bộ luật Dân sự 2005 về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài có nội dung “Trong trường hợp việc lựa chọn hoặc viện dẫn áp dụng pháp luật của nước có nhiều hệ thống pháp luật khác nhau, thì đương sự có quyền yêu cầu áp dụng hệ thống pháp luật có mối quan hệ gắn bó nhất với đương sự về quyền và nghĩa vụ công dân.”

Với các nước liên bang hoặc tại một số quốc gia như Trung Quốc có những vùng lãnh thổ có hệ thống pháp luật riêng (Hồng Công, Ma Cao…) thì khi dẫn chiếu đến pháp luật những nước này gặp vướng mắc. Việc cho phép đương sự được tự lựa chọn hệ thống pháp luật áp dụng trong trường hợp này có thể dẫn đến tình trạng lẩn tránh pháp luật.

Vì vậy, Bộ luật dân sự 2015 đã quy định lại việc áp dụng pháp luật của nước có nhiều hệ thống pháp luật theo hướng tôn trọng quy định về xác định hệ thống pháp luật cụ thể tại quốc gia nước ngoài đó, cụ thể Điều 668 BLDS 2015 quy định như sau: “Trường hợp pháp luật của nước có nhiều hệ thống pháp luật được dẫn chiếu đến thì pháp luật áp dụng được xác định theo nguyên tắc do pháp luật nước đó quy định”.


Một số điểm mới của Bộ luật dân sự năm 2015 so với bộ luật dân sự năm 2005

Điểm mới trong Bộ luật dân sự 2015: Khoản 2 của Điều 766 Bộ luật dân sự 2005 được tách thành một điều khoản riêng nhằm phân loại tài sản rõ ràng hơn. Bởi để có thể áp dụng được hệ thuộc luật nơi có tài sản trước hết cần phải phân biệt được tài sản đó là bất động sản hay động sản sau đó định nội dung pháp luật về việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản.

Bên cạnh đó Bộ luật dân sự 2015 đã lược bỏ quy định “Quyền sở hữu đối với máy bay dân dụng và tàu biển tại Việt Nam phải tuân theo pháp luật Việt Nam”. Bởi máy bay tuy là một loại tài sản đặc biệt nhưng việc quy định phân loại tài sản là động sản, bất động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản được ưu tiên áp dụng nhằm thống nhất, phù hợp với pháp luật quốc tế.

Quy định này không đặt ra trường hợp ngoại lệ, có tính phân biệt, tránh xung đột với pháp luật nước ngoài dẫn đến việc không có căn cứ giải quyết. Quy định về phân loại tài sản, quy định về quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản theo quy định Bộ luật dân sự 2015 như sau: Điều 677 Bộ luật dân sự 2015: Phân loại tài sản “Việc phân loại tài sản là động sản, bất động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản.”

Điều 678 Bộ luật dân sự 2015: Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản
“1. Việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

Bình luận về Giải quyết xung đột Pháp luật về sở hữu có yếu tố nước ngoài
Bình luận về Giải quyết xung đột Pháp luật về sở hữu có yếu tố nước ngoài

Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản là động sản trên đường vận chuyển được xác định theo pháp luật của nước nơi động sản được chuyển đến, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.” Các quyền đối với tài sản bao gồm:

Quyền sở hữu: là quyền của chủ sở hữu, bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật.

Quyền khác đối với tài sản: là quyền của chủ thể trực tiếp nắm giữ, chi phối tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác, bao gồm:

  •  Quyền đối với bất động sản liền kề
  •  Quyền hưởng dụng
  •  Quyền bề mặt

Như vậy bên cạnh có sự sắp xếp để làm rõ việc áp dụng pháp luật hệ thuộc luật nước nơi có tài sản thì Bộ luật dân sự 2015 có bổ sung về quyền khác đối với tài sản mà trước đây Bộ luật dân sự 2005 chưa có quy định điều chỉnh.

Có thể nói, BLDS 2015 trên cơ sở kế thừa các quy định của BLDS 2005, tiếp tục khẳng định giá trị ưu tiên áp dụng của Điều ước quốc tế so với Phần 5 BLDS 2015 và các luật khác có liên quan của Việt Nam khi có sự quy định khác nhau về pháp luật áp dụng đối với cùng một vấn đề. Đồng thời cũng quy định cụ thể rõ ràng hơn Điều ước quốc tế về nội dung được áp dụng ưu tiên với Điều ước quốc tế về xung đột.

Phương pháp xung đột và phương pháp thực chất là hai phương pháp quan trọng để giải quyết xung đột pháp luật. Quy phạm xung đột luôn mang tính chất dẫn chiếu, nó dẫn chiếu đến một hệ thống pháp luật cụ thể và các quy phạm thực chất trong hệ thống pháp luật đó được áp dụng để giải quyết quan hệ pháp luật phát sinh.

Đó chính là tính chất song hành giữa quy phạm xung đột và quy phạm thực chất trong việc điều chỉnh pháp luật. Pháp luật Việt Nam bằng việc kết hợp giữa phương pháp xung đột và phương pháp thực chất, những xung đột về quan hệ sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài được giải quyết thỏa đáng.


Trên đây là phần giải đáp thắc mắc của chúng tôi về vấn đề: Bình luận những quy định của pháp luật Việt Nam (Bộ luật dân sự 2015) trong việc giải quyết xung đột pháp luật về sở hữu có yếu tố nước ngoài. Nếu trong quá trình giải quyết còn gì thắc mắc bạn có thể liên hệ chúng tôi qua Tổng đài tư vấn luật trực tuyến qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy để được giải đáp.

Trân trọng./.

phone-call

GỌI HỎI ĐÁP MIỄN PHÍ

Scroll to Top