Trong guồng quay không ngừng của đời sống nền kinh tế toàn cầu, với chính sách mở cửa và hội nhập, tại Việt Nam các hoạt động thương mại cũng diễn ngày càng nhiều, số lượng giao dịch thông qua hợp đồng trong lĩnh vực thương mại ngày càng phổ biến. Tuy nhiên, khi tham gia giao kết hợp đồng thương mại, ngoài những lợi nhuận các thương nhân đạt được, đôi lúc, họ còn phải gánh chịu những rủi ro từ hợp đồng mang lại khi có những sự cố nằm ngoài khả năng dự đoán có thể xảy ra khiến cho một hoặc cả hai bên không thể thực hiện được nghĩa vụ của mình dẫn đến vi phạm hợp đồng. Qua bài phân tích sau đây tổng đài tư vấn Luật Quang Huy chúng tôi xin giải quyết về vấn đề: “Phân tích và bình luận các quy định về các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại”
Danh mục tài liệu tham khảo
- Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại tập 2, Nxb. CAND, Hà Nội.
- Bộ môn luật thương mại trường đại học luật Hà Nội, Hướng dẫn môn học luật thương mại tập 2, nxb Lao Động, 2014
- Luật thương mại 2005
- Bộ Luật Dân sự 2015
Nội dung
Khái quát về hợp đồng thương mại, chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại và miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng thương mại
Hợp đồng thương mại – hình thức pháp lý chủ yếu của quan hệ kinh doanh trong nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, hình thức pháp lý chủ yếu của các quan hệ tài sản nói chung và các quan hệ kinh doanh nói riêng chính là hợp đồng. “Bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận và thống nhất ý chí giữa các chủ thể nhằm xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trên cơ sở tự do, tự nguyện và bình đẳng”. Tuy nhiên, một thỏa thuận nhằm xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ được coi là hợp pháp khi được Nhà nước thừa nhận và đảm bảo thực hiện, nghĩa là phải đảm bảo các yêu cầu về thẩm quyền giao kết; mục đích, đối tượng giao kết; hình thức của sự thỏa thuận…Một thỏa thuận đáp ứng được các yêu cầu trên là một hợp đồng hợp pháp.
Pháp luật hiện hành ở nước ta không đưa ra định nghĩa về hợp đồng thương mại mà chỉ quy định khái niệm chung về hợp đồng dân sự. Điều 388 BLDS 2015 quy định “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Hợp đồng thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng dân sự. Tuy nhiên, nó có những đặc điểm riêng nhất định, khác với những hợp đồng dân sự thông thường theo cách hiểu truyền thống. Nó chỉ chịu sự điều chỉnh bởi pháp luật dân sự và không khác biệt với các hợp đồng dân sự thông thường ở những vấn đề cơ bản như: giao kết hợp đồng, nguyên tắc và các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng, hợp đồng vô hiệu và xử lý hợp đồng vô hiệu…Còn lại, xuất phát từ đặc điểm và yêu cầu của hoạt động thương mại, một số vấn đề về hợp đồng thương mại được quy định có tính chất là sự phát triển tiếp tục những quy định truyền thống về hợp đồng trong luật Dân sự đó là: vấn đề chủ thể, hình thức, quyền và nghĩa vụ của các bên, chế tài và giải quyết tranh chấp hợp đồng… Hiện nay, khái niệm hoạt động thương mại được quy định tại khoản 1 điều 3 Luật thương mại năm 2005 “là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Do đó, có thể hiểu khái quát “hợp đồng thương mại là sự thỏa thuận giữa các chủ thể kinh doanh với nhau và với các bên có liên quan về việc xác lập, thay đổi, hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong hoạt động thương mại”.
Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại
Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại là một loại chế tài phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng thương mại. Trong đó:
Chế tài là một bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên những biện pháp tác động mà Nhà nước dự kiến để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh. Các biện pháp tác động nêu ở bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật sẽ được áp dụng đối với tổ chức hay cá nhân nào vi phạm pháp luật, không thực hiện đúng mệnh lệnh của Nhà nước đã nêu ở bộ phận quy định của quy phạm pháp luật. Hay nói cách khác, chế tài là những hậu quả pháp lý bất lợi đối với bên vi phạm pháp luật.
Vi phạm hợp đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận giữa các bên hoặc theo quy định của luật này (khoản 12 điều 3 Luật thương mại năm 2005).
Như vậy, chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại là hình thức chế tài áp dụng đối với các chủ thể không thực hiện hay thực hiện không đúng, không đầy đủ các cam kết theo hợp đồng thương mại, theo đó bên có hành vi vi phạm phải gánh chịu một hậu quả pháp lý bất lợi do hành vi vi phạm của mình gây ra.
Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại
Miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng thương mại
Về bản chất, các trường hợp miễn trách nhiệm hợp đồng là những trường hợp loại trừ yếu tố lỗi của bên vi phạm. Cơ sở để miễn trách nhiệm cho bên vi phạm hợp đồng chính là ở chỗ họ không có lỗi khi không thực hiện, thực hiện không đúng hợp đồng. Nếu bên vi phạm hợp đồng có khả năng lựa chọn xử sự nào khác ngoài xử sự gây thiệt hại mà không lựa chọn thì bị coi là có lỗi và ngược lại, nếu không có khả năng lựa chọn xử sự nào khác thì được coi là không có lỗi và không phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm của mình.
Các trường hợp được miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm trong hợp đồng thương mại được quy định trong khoản 1 điều 294 Luật thương mại năm 2005.
Để được áp dụng các căn cứ miễn trách nhiệm thì bên có hành vi vi phạm hợp đồng có nghĩa vụ phải chứng minh mình không có lỗi. Nếu không chứng minh được, bên vi phạm coi như là có lỗi và phải chịu các chế tài do pháp luật quy định. Ngoài ra, khi xảy ra trường hợp được miễn trách nhiệm hợp đồng, bên vi phạm hợp đồng còn phải thông báo ngay (bằng văn bản) cho bên kia về trường hợp được miễn trách nhiệm và những hậu quả có thể xảy ra. Nếu bên vi phạm không thông báo hoặc thông báo không kịp thời cho bên kia thì phải bồi thường thiệt hại.
Quy định pháp luật về các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm
Trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thỏa thuận
Theo Điểm a Khoản 1, Điều 294 LTM thì một trong những trường hợp bên vi phạm được miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm là xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thỏa thuận, qua đó cho thấy Luật thương mại đề cao tính tự do thỏa thuận trong hợp đồng. Theo đó, các bên được quyền tự thỏa thuận các trường hợp miễn trách nhiệm khi giao kết hợp đồng thương mại… Tuy nhiên để được xác định là trường hợp miễn trách nhiệm khi có vi phạm xảy ra thì thỏa thuận đó phải đáp ứng được các điều kiện sau đây:
Thỏa thuận giữa các bên về trường hợp miễn trách nhiệm phải tồn tại trước khi xảy ra vi phạm và có hiệu lực đến thời điểm bên bị vi phạm áp dụng chế tài. Nếu thỏa thuận được hình thành sau khi có vi phạm xảy ra thì nó có ý nghĩa là bên bị vi phạm không áp dụng biện pháp chế tài đó với bên vi phạm chứ không phải là điều kiện để miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm do có thỏa thuận, bản chất của hai vấn đề hoàn toàn khác nhau.
Khi hợp đồng được giao kết bằng văn bản, thì thỏa thuận miễn trách nhiệm được ghi nhận trong nội dung hợp đồng hoặc trong phụ lục hợp đồng.
Có thể thấy rằng quy định của pháp luật nước ta mới chỉ dừng lại ở mức độ chung chung, và rõ ràng đã có sự thiếu xót ở đây bởi quy định này của nước ta mới chỉ đơn giản là công nhận trường hợp miễn trừ trách nhiệm hợp đồng đã được các bên thỏa thuận trước mà không lưu ý tới trường hợp một trong các bên lợi dụng sự tồn tại của điều khoản miễn trừ trách nhiệm để vi phạm hợp đồng, để họ không phải chịu biện pháp chế tài nào, hậu quả là sự bất bình đẳng giữa các bên trong hợp đồng thương mại không thể tránh khỏi.
Trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng
Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng. Điều này có nghĩa là dù hợp đồng có quy định hay không thì khi xảy ra sự kiện bất khả kháng dẫn đến việc vi phạm hợp đồng, bên vi phạm vẫn được miễn trách nhiệm. Sự kiện này xảy ra chỉ sau khi ký hợp đồng, không phải do lỗi của bất kỳ bên nào tham gia hợp đồng, đều ngoài ý muốn và các bên không thể dự liệu trước, cũng như không thể tránh và khắc phục được, dẫn đến không thể thực hiện hoặc không thể thực hiện đúng hoặc đầy đủ nghĩa vụ, bên chịu sự cố này có thể được miễn trừ trách nhiệm của hợp đồng hoặc kéo dài thời gian thực hiện hợp đồng. Nếu các bên không có thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được thì thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng được tính thêm một khoảng thời gian bằng thời gian xảy ra trường hợp bất khả kháng công với thời gian để khắc phục hậu quả theo quy định tại Điều 296 Luật thương mại 2005.
Thuật ngữ “Sự kiện bất khả kháng” không được nhà làm luật giải thích trong Luật TM năm 2005. Tuy nhiên, theo khoản 1 Điều 161 BLDS năm 2015, thì “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”. Với việc quy định theo phương pháp trừu tượng hoá như vậy của Bộ luật dân sự thì việc hiểu rõ nội hàm của khái niệm sự kiện bất khả kháng và việc áp dụng là rất khó. Nếu trong trường hợp các nước thừa nhận án lệ là một nguồn luật thì các bản án của toà án có liên quan đến vấn đề này sẽ là nguồn luật giải thích một cách cụ thể sự kiện bất khả kháng trong thực tế. Thế nhưng, pháp luật Việt Nam chỉ thừa nhận một nguồn luật duy nhất là văn bản pháp luật, không thừa nhận án lệ thì cách giải thích hoặc hiểu theo khía cạnh thực tiễn chỉ có giá trị tham khảo. Theo thông lệ chung, sự kiện bất khả kháng thường được hiểu có thể là những hiện tượng do thiên nhiên gây ra (thiên tai) như lũ lụt, hỏa hoạn, bão, động đất, sóng thần… hoặc các hiện tượng xã hội như chiến tranh, bạo loạn, đảo chính, đình công,… Tất nhiên việc chứng minh có tồn tại sự kiện bất khả kháng thuộc về nghĩa vụ của bên vi phạm hợp đồng, nhưng việc bên đó được hay không được miễn trừ lại phụ thuộc vào bên bị vi phạm hoặc cơ quan chức năng có chấp nhận nó là sự kiện bất khả kháng hay không. Với một khái niệm còn quá khái quát như vậy thì đương nhiên việc tìm được tiếng nói chung giữa các bên là không hề dễ dàng.
Trường hợp hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia
Lỗi được coi là một trong những yếu tố để xác định trách nhiệm dân sự. Lỗi này có thể là hành động hoặc không hành động của bên bị vi phạm. Về bản chất, thì các bên đều có hành vi vi phạm, tuy nhiên, sự vi phạm của một bên có nguyên nhân chủ yếu từ lỗi của bên bị vi phạm. Chẳng hạn, bên vi phạm đã làm theo một chỉ dẫn không rõ ràng của bên bị vi phạm dẫn đến thiệt hại. trong trường hợp này, bên vi phạm đã được loại trừ lỗi cấu thành nên hành vi vi phạm, bên bị vi phạm sẽ chịu những rủi ro về thiệt hại này.
Tuy nhiên, Điều 294 mới dự liệu miễn trách nhiệm đối với bên vi phạm hợp đồng khi “Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia” mà chưa tính đến khả năng hành vi vi phạm của một bên có nguyên nhân xuất phát từ bên thứ ba, mà bên này rơi vào các trường hợp mà pháp luật quy định được miễn trách nhiệm. Đành rằng, các bên có thể thoả thuận về các trường hợp miễn trách nhiệm trong hợp đồng của họ. Nhưng trong trường hợp không được thoả thuận, đương nhiên bên vi phạm sẽ không được miễn trách nhiệm nếu do lỗi của bên thứ ba, mặc dù bên này rơi vào các trường hợp miễn trách nhiệm. Về vấn đề này, có vẻ như Luật thương mại 2005 cứng nhắc hơn so với Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989, một văn bản pháp luật điều chỉnh hợp đồng kinh tế trong không gian và thời gian của cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Tại Điều 40 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định: “Bên vi phạm hợp đồng kinh tế được xét giảm hoặc miễn hoàn toàn trách nhiệm tài sản trong các trường hợp sau đây: 1) Gặp thiên tai, địch hoạ và các trở lực khách quan khác không thể lường trước được và đã thi hành mọi biện pháp cần thiết để khắc phục ; 2) Phải thi hành lệnh khẩn cấp của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; 3) Do bên thứ ba vi phạm hợp đồng kinh tế với bên vi phạm nhưng bên thứ ba không phải chịu trách nhiệm tài sản trong các trường hợp quy định tại điểm 1 và điểm 2 của điều này… Tất cả các luật quy định về hợp đồng sau này như Bộ luật dân sự 1995, Luật thương mại 1997, Bộ luật dân sự 2005, Luật thương mại 2005 đã không kế thừa sự tiến bộ này mà lại loại bỏ nó ra khỏi các trường hợp miễn trách nhiệm được quy định trong luật.
Trường hợp vi phạm hợp đồng do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng
Xét về bản chất, hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước là hành vi vi phạm do sự kiện bất khả kháng về sự biến pháp lý. Quyết định của cơ quan nhà nước phải làm phát sinh nghĩa vụ của bên vi phạm, tức là phải thực hiện hoặc không thực hiện một hành vi nhất định nào đó dẫn tới hành vi vi phạm hợp đồng. rõ ràng, các bên cũng không lường trước được những vi phạm và thiệt hại khi có một quyết định của nhà nước xen vào. Đó có thể là quyết định hành chính (quyết định xử phạt vi phạm, quyết định trưng thu,…) hoặc quyết định của cơ quan tư pháp (bản án, quyết định). Miễn trách nhiệm chỉ được áp dụng khi hành vi vi phạm do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng. Còn nếu như các bên đã biết về việc thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền có thể dẫn đến vi phạm hợp đồng mà vẫn đồng ý giao kết hợp đồng thì không được áp dụng miễn trách nhiệm.
Tuy nhiên, Luật thương mại cùng các văn bản hướng dẫn thi hành vẫn còn chưa quy định rõ ràng một số vấn đề sau:
“Các bên” ở trong trường hợp này có nghĩa là cả bên vi phạm và bên bị vi phạm, thế nhưng việc không thể biết quyết định cơ quan nhà nước có thẩm quyền dẫn đến vi phạm hợp đồng chỉ có ý nghĩa đối với bên vi phạm hợp đồng, từ đó khẳng định bên vi phạm hợp đồng không có “lỗi”. Việc bên bị vi phạm có biết hay không thì về bản chất không ảnh hưởng gì đến thái độ của bên vi phạm hợp đồng. Giả sử bên bị vi phạm hợp đồng khi ký hợp đồng biết trước có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền chắc chắn dẫn đến việc vi phạm hợp đồng và cứ ký hợp đồng trong khi bên vi phạm hợp đồng không hề biết. Vậy khi có hành vi vi phạm hợp đồng do thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước, bên vi phạm hợp đồng có được miễn trách nhiệm hay không khi bên bị vi phạm chứng minh được mình biết trước quyết định đó?
Hiểu thế nào là “không thể biết” để từ đó được miễn trách nhiệm đối với trường hợp này cũng còn quá chung chung. Việc biết sự tồn tại của quyết định của cơ quan nhà nước có buộc phải theo một “kênh chính thống” hay có thể biết bằng nhiều cách khác nhau? Cơ quan quản lý nhà nước có phải thông báo bằng văn bản hay chỉ cần thông báo bằng miệng về quyết định đó thì thương nhân mới “biết”, hay nếu bên bị vi phạm chỉ cần chứng minh các bên biết sự tồn tại của quyết định đó, bất kể “biết” theo kiểu gì, “biết” bằng cách nào cũng đều là chứng cứ để bên vi phạm phải gánh chịu trách nhiệm?
Cho đến hiện nay, vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào được ban hành để hướng dẫn thi hành quy định này.
Một số ý kiến góp phần hoàn thiện quy định pháp luật về các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm
Thứ nhất, bổ sung quy định về điều kiện để công nhận thỏa thuận miễn trừ trách nhiệm hợp đồng giữa các bên. Luật TM năm 2005 cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định có tính nguyên tắc về điều kiện công nhận thỏa thuận miễn trừ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, như: Thỏa thuận giữa các bên về trường hợp miễn trách nhiệm phải tồn tại trước khi xảy ra vi phạm và có hiệu lực đến thời điểm bên bị vi phạm áp dụng chế tài; Thỏa thuận này có giá trị pháp lý nếu như nó không phải là vi phạm do cố ý;…nếu được như vậy sẽ đảm bảo sự tự do thỏa thuận giữa các bên vừa hạn chế trường hợp khi một bên lợi dụng căn cứ này để trốn tránh trách nhiệm hợp đồng.
Thứ hai, bổ sung quy định về căn cứ miễn trách nhiệm do người thứ ba có quan hệ với một bên trong hợp đồng thương mại gặp trường hợp bất khả kháng. việc bổ sung quy định về căn cứ miễn trách nhiệm cho bên vi phạm do người thứ ba có quan hệ hợp đồng với bên vi phạm gặp bất khả kháng là phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế. Vấn đề này cũng được quy định trong công ước Viên 1980 của Liên Hợp Quốc, cũng như quy định của pháp luật tại nhiều quốc gia khác. Để được miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong trường hợp này, theo tác giả, cần quy định cụ thể về điều kiện làm căn cứ miễn trách nhiệm đối với bên thứ ba cho một bên hợp đồng thương mại, cụ thể:
Sự kiện bất khả kháng mà bên thứ ba gặp phải phải đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại Điều 156 BLDS năm 2005;
Hợp đồng của bên vi phạm với bên thứ ba có quan hệ mật thiết với hợp đồng thương mại giữa bên vi phạm và bên bị vi phạm;
Việc bên thứ ba vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc vi phạm hợp đồng của bên vi phạm và bên vi phạm không thể khắc phục được.
Thứ ba, cần có quy định hướng dẫn cụ thể cơ quan quản lý nhà nước trong trường hợp này ra quyết định nhằm mục đích gì, những điều kiện cụ thể để một quyết định có thể trở thành căn cứ miễn trách nhiệm cho bên vi phạm hợp đồng. Chỉ những quyết định mang tính chất bất khả kháng, bên vi phạm không thể có lựa chọn nào khác ngoài việc vi phạm hợp đồng mới có thể là căn cứ miễn trừ trách nhiệm. Ví dụ như quyết định thu hồi đất phục vụ mục đích an ninh, quốc phòng…Ngoài ra, nếu việc thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước mang lại lợi ích cho bên vi phạm và gây thiệt hại cho bên bị vi phạm hợp đồng thì cần có cơ chế phù hợp để đảm bảo lợi ích cho các bên. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong quan hệ thương mại, đặc biệt trong quan hệ quốc tế.
Bản chất của miễn trừ trách nhiệm đối với hành vi vi phạm là việc bên chủ thể vi phạm nghĩa vụ đáng lẽ phải gánh chịu chế tài mà pháp luật quy định phải áp dụng với hành vi vi phạm đó, tuy nhiên, vì thiệt hại xảy ra trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định mà bên vi phạm nghĩa vụ được miễn trừ toàn bộ hoặc một phần trách nhiệm. Đây là một trong những vấn đề có ý nghĩa quan trọng, không chỉ đảm bảo quyền lợi của các bên giao kết hợp đồng, đảm bảo sự tự nguyện thỏa thuận của các bên mà còn là yếu tố hạn chế việc một bên lợi dụng quy định về miễn trừ trách nhiệm để trốn tránh trách nhiệm dân sự. Tuy nhiên, vấn đề này chưa được pháp luật thương mại quy định cụ thể và toàn diện dẫn tới việc áp dụng trong thực tế còn gặp nhiều khó khăn và không thống nhất. Hi vọng, trong khoảng thời gian không xa tới, các cơ quan chức năng sẽ đưa ra những quy định bổ sung và văn bản hướng dẫn cụ thể hơn để pháp luật thương mại nói chung, pháp luật quy định về vấn đề miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng thương mại được hoàn chỉnh hơn.
Trên đây là phần giải đáp thắc mắc của chúng tôi về vấn đề:Phân tích và bình luận các quy định về các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại. Nếu trong quá trình giải quyết còn gì thắc mắc bạn có thể liên hệ chúng tôi qua tổng đài tư vấn pháp luật qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy để được giải đáp.
Trân trọng./.