Nước là một nhân tố quan trọng cấu thành nên môi trường. Nước là một dạng tài nguyên, là thành phần thiết yếu của sự sống và môi trường, quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia cũng như của cả hành tinh. Nhưng trong những năm qua, sự tăng nhanh về dân số và khai thác quá mức tài nguyên nước, các tài nguyên đất và rừng đã làm suy kiệt nguồn nước, việc phát triển đô thị và công nghiệp nhưng không có biện pháp quản lý chặt chẽ và xử lý chất thải theo yêu cầu cũng đã làm ô nhiễm nguồn nước. Do vậy việc bảo vệ tài nguyên nước hiện nay đã trở thành một trong các chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Bằng những biện pháp và chính sách khác nhau Nhà nước ta đã và đang can thiệp mạnh mẽ vào các hoạt động của cá nhân và tổ chức trong xã hội để bảo vệ nguồn nước, ngăn chặn ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước. Qua bài phân tích sau đây tổng đài tư vấn Luật Quang Huy chúng tôi xin giải quyết về vấn đề: “Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về việc kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước tại Việt Nam”.
Danh mục tài liệu tham khảo
- Giáo trình Luật Môi trường, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân , Hà Nội 2014
- Luật Tài nguyên nước 2012
- Luật Bảo vệ môi trường 2014
- Luật Khoáng sản 2010
Khái niệm vai trò củ tài nguyên nước
Mọi người cũng xem:
Một số khái niệm
Tài nguyên nước bao gồm nguồn nước mặt, nước dưới đất, nước mưa và nước biển thuộc lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. (Khoản 1 Điều 2 Luật Tài nguyên nước 2012).
Ô nhiễm nguồn nước là sự biến đổi tính chất vật lý, tính chất hóa học và thành phần sinh học của nước không phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật cho phép, gây ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật (Khoản 14 Điều 2 Luật Tài nguyên nước 2012).
Suy thoái nguồn nước là sự suy giảm về số lượng, chất lượng nguồn nước so với trạng thái tự nhiên hoặc so với trạng thái của nguồn nước đã được quan trắc trong các thời kỳ trước đó (Khoản 15 Điều 2 Luật Tài nguyên nước 2012).
Vai trò của nước đối với đời sống, kinh tế, xã hội
Trong đời sống xã hội: Nước là yếu tố không thể thiếu và không thể thay thế được trong sinh hoạt hàng ngày của con người. Sự sống của con người và các loài động vật, thực vật trên trái đất không thể thiếu nước. Nước cần cho ăn uống, sinh hoạt. Nước cần cho nhu cầu của cơ thể sống và chiếm phần lớn trọng lượng cơ thể. Như vậy nước sạch là nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá. Tuy nhiên nước không phải là vô hạn nếu chúng ta không sử dụng tiết kiệm và bảo vệ nguôn nước thì nó sẽ nhanh chóng bị suy thoái và cạn kiệt.
Trong lĩnh vực kinh tế:
Đối với ngành sản xuât nông nghiệp: Nước ta là một nước nông nghiệp với tỷ lệ dân số lớn là nông dân với nghề truyền thống là lúa nước, 70% dân số sống tại khu vực nông thôn phụ thuộc trực tiếp hoặc gián tiếp vào hoạt động sản xuất nông nghiệp. Như vậy có thể thấy rằng nước đóng vai trò rất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Các cây trồng, vật nuôi không thể sống thiếu nước. Nước là một trong những nhân tố quan trọng nhất đối với ngành sản xuất nông nghiệp.
Đối với ngành nuôi trồng, đánh bắt thủy sản: Nước là môi trường sống của các loại thủy sản. Môi trường nước là nơi trực tiếp diễn ra các hoạt động nuôi trồng, đánh bắt thủy sản của con người. Trong những năm gần đây Việt Nam đã đẩy mạnh phát triển ngành kinh tế thủy sản và đem lại hiệu quả cao. Chúng ta cần có những chiến lược, chính sách pháp luật chặt chẽ về khai thác, sử dụng, bảo vệ, quản lý nguồn nước tạo điều kiện mạnh mẽ phát triển ngành thủy sản.
Đối với ngành công nghiệp: Nước dùng trong công nghiệp để làm nguội thiết bị, hấp thụ, vận chuyển vật chất hoặc làm dung môi pha trộn. Đối với nhiều ngành công nghiệp nước là tư liệu sản xuất không thể thay thế được như ngành sản xuất giấy, vải, sợi. Nước còn đóng vai trò trong ngành sản xuất điện. Ngoài ra nước còn đóng vai trò quan trọng đối với giao thông vận tải, dịch vụ, du lịch.
Thực trạng suy thoái và ô nhiễm tài nguyên nước
Mọi người cũng xem:
Thực trạng ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước ở Việt Nam
Trong giai đoạn công nhiệp hóa hiện đại hóa Việt Nam phải đối mặt với nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng trong đó có vấn đề ô nghiễm nguồn nước. Cùng với sự gia tăng dân số nạn thiếu nước sạch dùng cho ăn uống, sinh hoạt trở thành một hiện tượng khá phổ biến ở một số vùng trong nước ta, chất lượng nước đang là một trong những vấn đề nhức nhối nhất. Ỏ một số nơi nồng độ các chất gây ô nhiễm đã vượt nhiều lần so với tiên chuẩn cho phép. Nghiêm trọng hơn là người ta đã phát hiện thấy các hóa chất như phenol, cyanua là những chất cực kì độc hại đối với sức khỏe con người ở một số nguồn nước mặt. Một số vùng ven biển ở gần các thành phố và khu công nghiệp hàm lượng chất phù sa lơ lửng, dầu, kẽm, coliform trong nước lớn gấp nhiều lần tiêu chuẩn cho phép. Nước thải bao gồm cả nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp, nước thải bệnh viện đã làm ô nhiễm hàng loạt ao hồ.
thực tiễn áp dụng về việc bảo vệ tài nguyên nước ở Việt Nam
Thực trạng ô nhiễm nguồn nước mặt
Ở thành thị và các khu sản xuất: Môi trường nước ở nhiều đô thị, khu công nghiệp và làng nghề ngày càng bị ô nhiễm bởi chất thải, khí thải và chất thải rắn. Ở các thành phố lớn hàng trăm cơ sở sản xuất công nghiệp đang gây ô nhiễm môi trường nước do không có công trình và thiết bị xử lý chất thải. Mức độ ô nhiễm ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp tập trung là rất lớn. Ví dụ vụ việc Công ty Vedan Việt Nam xả chất thải không qua xử lý ra sông Thị Vải năm 2008 theo kết quả khảo sát của Viện Môi trường và tai nguyên TP HCM cho thấy mức độ ô nhiễm sông Thị Vải do Công ty Vedan gây ra chiếm 80-90%, phần còn lại là của doanh nghiệp khác trong khu vực. Với hành động xả chui hơn 100.000 mét khối nước thải độc ra sông mỗi tháng. Bán kính vùng ô nhiễm do Công ty Vedan gây ra có phạm vi 10 km dọc bờ sông Thị Vải. Nước sông tại các vừn này bị ô nhiễm nặng nề, nước có màu đen và hôi, cá chết hàng loạt. Theo báo cáo của Viện Tài nguyên mà môi trường gần gần 2.700 ha nuôi trồng thủy sản của khu vực này bị thiết hại, tỉnh Đồng Nai có hơn 2.100 ha nuôi trồng thủy sản bị tàn phá bởi ô nhiễm. Ô nhiễm nhất trong toàn bộ lưu vực đó là sông Thị Vải, trong đó có 1 đoạn sông dài trên 10 km gọi là “dòng sông chết” đây là đoạn từ khu vưc hợp lưu Suối Cả-sông Thị Vải khoảng 2 km đến khu công nghiệp Mỹ Xuân. Tại đây nước bị ô nhiễm hữu cơ trầm trọng, có màu nâu đen và bôc mùi hôi thối cả ngày lẫn đêm, cả khi thủy triều.
Ở nông thôn và khu vực sản xuất nông nghiệp: Đa số dân cư sống ở nông thôn là nơi có cơ sở hạ tầng còn lạc hậu, phần lớn các chất thải của con người và gia súc không được xử lý và thấm xuống đất hoặc bị rửa trôi làm cho tình trạng ô nhiễm nguồn nước về mặt hữu cơ và vi sinh vật ngày càng cao. Trong sản xuất nông nghiệp việc lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật dẫn đến các nguồn nước ở sông, hồ, kênh mương bị ô nhiễm ảnh hưởng đến môi trường nước và sức khỏe con người.
Thực trạng ô nhiễm nước dưới đất
Việt Nam có nguồn nước ngầm trữ lượng lớn và chất lượng tốt nhưng đã bị khai thác quá mức. Tại Hà Nội và tại nhiều khu vực ở Thành phố Hồ Chí Minh mực nước ngầm đã giảm 30m so với mực nước tự nhiên. Nguồn nước duwois đất ở Việt Nam không chỉ phải đối diện với tình trạng cạn kiệt mà nó còn bị nhiễm mặn, nhiễm những chất độc hại.
Như vậy có thể thấy rằng tài nguyên nước ở nước ta đang trong tình trạng ô nhiễm, suy thoái cả về số lượng và chất lượng. Về số lượng, Việt Nam hiện nay đang lâm vào tình trạng thiếu nước do tài nguyên nước của Việt Nam phân bố không đều theo thời gian trong năm và giữa các năm. Cùng với sự phân bố không đều giữa các vùng trong cả nước cũng là một phần nguyên nhân của tình trạng thiếu hụt nước. Về chất lượng, tình trạng ô nhiễm nguồn nước mặt ngày càng tăng cả về mực độ và quy mô. Nguồn nước dưới đất ở nhiều đô thị, một số khu vực đồng bằng đã có biểu hiện ô nhiễm do các chất hữu cơ có phân hủy và hàm lượng vi khuẩn cao. Các biểu hiện suy thoái, cạn kiệt nguồn nước dưới đất ngày càng trở nên rõ rệt và phổ biến ở nước ta.
Nguyên nhân của sự ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước ở Việt Nam
Nguyên nhân dẫn đến việc ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước ở Việt Nam:
Do gia tăng nhanh về dân số. Sự gia tăng dân số kéo theo sự gia tăng về nhu cầu sử dụng nước sạnh trong ăn uống và lượng nước cần dùng cho sản xuất.
Do việc khai thác quá mức tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan đến nước như đất, rừng khiến tài nguyên nước bị suy kiệt.
Do chưa kiểm soát được các nguồn thải và chưa quan tâm đầu tư cho các hệ thống thu gom, xứ lý các chất thải lỏng, thải rắn.
Do tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu, khí hậu toàn cầu đang nóng lên đã và sẽ gây tác động nhiều đến tài nguyên nước: làm giảm tổng lượng dòng chảy, làm băng tan khiến cho nước biển dâng cao, mặn sẽ xâm nhập sâu hơn vào những vùng đồng bằng thấp khiến nguồn nước ngọt phân bổ trên các sông chảy ra biên sẽ bị đẩy lùi dần. Tất cả điều này làm suy thoái thêm nguồn nước khiến không còn đủ nguồn nước ngọt để phục vụ sản xuất và đời sống.
Do những nguyên nhân về quản lý: Trên thế giới khi đánh giá về nguyên nhân suy thoái tài nguyên nước đã nhận định là quản lý có vai trò chi phối và có tác động rất lớn. Ở Việt Nam tuy mới công nghiệp hóa và mở rộng các đô thị nhưng ô nhiễm nước và suy thoái nước đã phát triển rất nhah thậm chí đến mức báo động cũng là do chúng ta còn những tồn tại lớn trong quản lý về mặt tổ chức, quy hoạch, chính sách.
Đánh giá thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước ở Việt Nam
Mọi người cũng xem:
Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước
Nhìn chung, Bộ tài nguyên và môi trường, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn và các Bộ, ngành liên quan đã xây dựng được nhiều văn bản pháp luật quy định về kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước.
Năm 2012 Quốc hội đã thông qua Luật Tài nguyên nước gồm 10 Chương, 79 điều trong đó đã bổ sung 39 điều mới hoàn toàn về nội dung và sửa đổi, bổ sung 40 điều của Luật Tài nguyên nước năm 1998. Đây là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất trong các văn bản quy định về kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước. Trong văn bản này có những quy định cụ thể về vệ tài nguyên nước (chương III), khai thác, sử dụng tài nguyên nước (chương IV), tài chính về tài nguyên nước (chương VI)…và trách nhiệm quản lý tài nguyên nước (chương VIII). Qua đó khẳng định Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về tài nguyên nước, quy định cụ thể trách nhiệm quản lý nhà nước về tài nguyên nước của Bộ Tài nguyên và Môi trường, các Bộ-ngành liên quan và của chính quyền địa phương các cấp thậm chí đến các xã. Đối tượng quản lý tài nguyên nước trong Luật Tài nguyên nước được mở rộng đến việc quản lý cả lòng sông, bờ bãi cũng như việc thiết lập các công cụ, biện pháp kinh tế trong quản lý tài nguyên nước. Luật đã đưa ra nhiueef điểm mới, đồng thời đã thể chế hóa một số chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Để triển khai Luật Tài nguyên nước 2012 nhà nước đã ban hành một số văn quy phạm pháp luật bản như: Nghị định số 43/2015/NĐ-CP quy định về lập, quản lý hàng lang bảo vệ nguồn nước; Nghị định số 54/2015/NĐ-CP quy định về ưu đãi đối với hoạt động sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả.
Ngoài ra vấn đề bảo vệ tào nguyên nước còn được quy định trong Luật bảo vệ môi trường (2014), Luật khoáng sản 2010. Bên cạnh đó còn một số tiêu chuẩn ngành quy định đối với một số chỉ tiêu chất lượng nước ăn uống bề mặt, nước thải,…như tiêu chuẩn của Bộ Xây dựng, Bộ Khoa học và Công nghệ.
Đánh giá pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước
Ưu điểm
Trong những năm qua hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước ngày càng được bổ sung và hoàn thiện, phát huy vai trò tích cực trong việc huy động mọi nguồn lực của toàn xã hội vào việc bảo vệ nguồn nước.
Thứ nhất. việc ban hành Luật Tài nguyên nước đã từng bước đưa công tác quản lý và sử dụng nước ở nước ta dần đi vào nề nếp, nâng cao ý thức của người dân trong việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm nước đi đôi với bảo vệ chống gây ô nhiễm, nhiễm bẩn và làm cạn kiệt nguồn nước.
Thứ hai, pháp luật về bảo vệ nguồn nước đã thể hiện sâu sắc quan điểm bảo vệ, khai thác, sử dụng tìa nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra phải tuân theo quy hoạch lưu vực sông. Phương pháp quản lý theo lưu vực sông là thích hợp cho việc tính toán, đánh giá, liên kết các quá trình sinh học và vật lý của các hoạt động diễn ra trong lưu vực. Phap luật đã dề cập nội dung này tại Điều 55 Luật Tài nguyên nước 2012.
Thứ ba, pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước đã đề cập vấn đề quan hệ quốc tế về tài nguyên nước. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng bởi lẽ nguồn nước không chỉ phân bố trpng phạm vi một nước mà còn vận động theo lưu vực đi qua lãnh thổ của nhiều quốc gia. Vì vậy để bảo vệ và khai thác hợp lý nguồn tài nguyên nước cần có sự hợp tác của các nước trong lưu vực sông (Điều 68 Luật Tìa nguyên nước 2012).
Qua đó có thể thấy rằng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước được xây dựng một cách khá đầy đủ và cụ thế, thể hiện ở việc quy định về các nghĩa vụ của Nhà nước về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước, của các tổ chức, cá nhân trong việc bảo vệ, phát triển tài nguyên nước. Đồng thời pháp luật cũng quy định rõ về các biện pháp xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Hạn chế
Một là, các văn bản quy phạm pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên nước còn năm rải rác ở nhiều văn bản pháp luật mà chưa có một văn bản quy định thống nhất về vấn đề này. Điều này dẫn đến tình trạng có sự chồng chéo trong hoạt động của các cơ quan đặc biệt là hoạt động của Bộ Tài nguyên môi trường và Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Theo quy định của pháp luật hiện hành Bộ Tài nguyên môi trường chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về nước dưới góc độ tài nguyên môi trường nhằm bảo vệ lĩnh vực khai thác, sử dụng nước nhằm phục vụ tưới tiêu cho sản xuất nông, lâm nghiệp và phòng, chống, hạn chế các tác hại do nước gây ra cho đời sống và sản xuất của con người. Tuy nhiên hiện nay lại chưa có văn bản nào phân định rõ chức năng, sự phối kêt hợp của hai cơ quan này nói riêng cũng như các cơ quan khác trong việc quản lý tài nguyên nước. Chính điều này đã gây khó khăn cho các bên trong thực hiện công tác quản lý, làm giảm hiệu lực quản lý nhà nước về tài nguyên nước.
Hai là thiếu các quy định về bảo về bảo vệ nguồn nước và hệ sinh thái thủy sinh, duy trì dòng chảy tối thiểu trong lòng sông. Bảo vệ nguồn nước không chỉ đơn thuần là bảo vệ chất lượng nguồn nước và còn bảo vệ số lượng nguồn nước và môi trường xung quanh nguồn nước đó kể cả lòng và bờ, thảm thực vật và động vật sống trong hoặc trên lòng và bờ nguồn nước.
Ba là, cơ cấu tổ chức của bộ máy nhà nước về quản lý tài nguyên nước chưa được hoàn thiện, mạng lưới điều tra cơ ản về tài nguyên nước và môi trường chưa được hoàn chỉnh, chưa thiết lập được đầy đủ cơ sở dữ liệu, tài liệu cơ bản về tài nguyên nước, về sử dụng và ô nhiễm để phục vụ cho hoạt động lập pháp nhằm quản lý và bảo vệ nguồn tìa nguyên này.
Bốn là hiện nay vẫn thiếu nhiều cán bộ để thực hiện nhiệm vụ quản lý và chống suy thoái tìa nguyên nước. Chính sách về tài nguyên nước chưa đầy đủ trong khi quản lý tài nguyên nước là nhiệm vụ rất quan trọng đòi hỏi cần có sự phối kết hợp thực hiện hiệu quả giữa các ngành, các cấp và toàn thể xã hội.
Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về kiểm soát và suy thoái tài nguyên nước tại Việt Nam
Mọi người cũng xem:
Về phía cơ quan nhà nước
Ưu điểm
Trong những năm gần đây nhà nước đã xây dựng và tổ chức thực hiện nhiều chương trình, chiến lược bảo vệ và phát triển tài nguyên nước như “Định hướng phát triển thoát nước đô thị Việt Nam đến năm 2019”. Đặc biệt “Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2019 đã đặt mục tiêu bảo vệ, khai thác hiệu quả và phát triển bền vững tài nguyên nước. Đây là chiến lược đầu tiên của quốc gia đề cập một cách toàn diện về quan điểm, nguyên tắc chủ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp về bỏa vệ, khai thác, sử dụng, phát triển tài nguyên nước, phòng chống tác hại do nước gây ra. Như vậy có thể thấy rằng nhà nước ta hết sức quan tâm đến việc bảo vệ và phát triển tài nguyên nước. Thực hiện các chiến lược này trong thực tế đã góp phần cải thiện đáng kể chất lượng môi trường nước và trong tương lai sẽ bảo đảm bảo vệ, phát triển tài nguyên nước ở mức độ cao hơn, đáp ứng nhu cầu sử dụng nước của cộng đồng.
Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn đã chỉ đạo các tỉnh xây dựng và phê duyệt dự án quy hoạch cấp nước sạch ở các tỉnh. Đến nay đã có 5/7 vùng kinh tế sinh thái, có 61/64 tỉnh hoàn thành quy hoạch tổng thể về nước sạch. Bên cạnh đó, các tỉnh cũng đã thực hiện nhiều biện pháp để góp phần thực hiện mục tiêu chống cạn kiệt nguồn nước, chống ô nhiễm môi trường và bảo vệ nguồn nước như: Điều tra, đánh giá trữ lượng, chất lượng, hiện trạng sử dụng và đinh hướng khai thác, bảo vệ tài nguyên nước trên địa bản tỉnh; ban hành quy định về khai thác các công trình cấp nước sinh hoạt trên địa bàn tỉnh và tăng cường quản lý việc khia thác nước ngầm,…
Ngoài ra công tác điều tra cơ bản về tài nguyên nước đã được triển khai trên tất cả các mặt: điều tra, đánh giá tài nguyên nước mặt, nước dưới đất; tình hình kha thác, sử dụng nước và xả thải vào nguồn nước, lập bản đồ tài nguyên nước lưu vực sông. Công tác thanh tra, kiểm tra được triển khai thường xuyên.
Hạn chế
Sự phối hợp trong việc quản lý và bảo vệ tài nguyên nước giữa các tỉnh trong lưu vực chưa được chặt chẽ, thống nhất. Trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi tỉnh vì lợi ích riêng của mình dẫn đến còn có những bất cập ảnh hưởng lẫn nhau như: các tỉnh nằm ở thượng và trung lưu như Phú Thọ, Thái Nguyên quá trình sử dụng nước cho công nghiệp đã thải các chất độc hại và nước thải chưa qua xử lý làm ảnh hưởng tới chất lượng nước của các tỉnh nằm dưới hạ lưu. Các tỉnh miền núi đã không kiểm soát được việc khai thác rừng, khai thác khoáng sản bừa bãi đã gây ô nhiễm cạn kiệt nguồn nước và bồi lắng sông, hồ ở hạ lưu. Những vấn đề bày chưa được giải quyết triệt để vì còn thiếu nhiều chế tài xử phạt hành chính, cấp phép sử dụng nước và xả nước thải để điều chỉnh có tính chất vĩ mô giải quyết mâu thuẫn trong việc quản lý nước theo ranh giới hành chính và ranh giới thủy văn của hệ thống nguồn nước.
Các quy định về quản lý và bỏa vệ môi trường nước còn thiếu (như chưa có các quy định và quy trình kỹ thuật phục vụ cho công tác quản lý và bảo vệ nguồn nước).
Chưa có chiến lược, quy hoạch khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước theo lưu vực và các vùng lãnh thổ lớn. Chưa các các quy định hợp lý trong việc đóng góp tài chính để quản lý và bảo vệ môi trường nước gây nên tình trạng thiếu hụt tài chính, thu không đủ chi cho bảo vệ môi trường nước. Đội ngũ cán bộ bảo vệ môi trường nước còn thiếu về số lượng và chất lượng.
Về phía các tổ chức, cá nhân
Ưu điểm
Cá nhân, tổ chức sử dụng, khai thác nguồn nước đã có ý thức chấp hành pháp luật về tài nguyên nước, sử dụng tiết kiệm nguồn nước và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên nước. Để đảm bảo cho nhu cầu khai thác và sử dụng lâu dài các chủ thể đã thực hiện nghĩa vụ của mình đối với việc khai thác, sử dụng nguồn nước như nghĩa vụ nộp phí nước thải, nghĩa vụ đánh giá tác động môi trường, không thực hiện những hành vi gây ô nhiễm nước,…
Hạn chế
Bên cạnh những mặt đã đạt được thì vẫn còn có hiện tượng các tổ chức, cá nhân hành nghề khoan thăm dò nước, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xả nước thải vào nguồn nước. Các hành vi này đã gây nên một số hậu quả nghiêm trọng như: sụt lún đất, ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm tầng chứa nước ngầm ngày càng gia tăng.
Qua kết quả thanh tra, kiểm tra công tác bảo vệ môi trường tại các địa phương trong thời gian qua cho thấy việc xây dựng các công trình xử lý và bảo vệ môi trường đòi hỏi kinh phí đầu tư lớn nên hầu hết các doanh nghiệp chưa muốn đầu tư, xây dựng các công trình xử lý môi trường; phần lớn các khu công nghiệp hiện nay chưa có hệ thống xử lý nước thải đạt chuẩn nên thường xảy ra tình trạng ô nhiễm bên cạnh các khu công nghiệp, khu đô thị…Bên cạnh đó khung pháp lý cho việc thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra vẫn còn thiếu và chưa đủ mạnh để buộc các doanh nghiệp thực thi công tác bảo vệ môi trường.
Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả thực tiễn của pháp luật về kiểm soát nhiễm và suy thoái tài nguyên nước
Mọi người cũng xem:
Một là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về tài nguyên nước, kiến nghị chính phủ sớm khắc phục sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ quản lý tài nguyên nước.
Hai là, triển khai thực hiện chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2019, tăng cường đầu tư thực hiện các dự án điều tra cơ bản, năm chắc nguồn nước, kiểm kê tài nguyên nước quốc gia, xây dựng cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin về tài nguyên nước, thường xuyên thanh tra, kiểm tra việc khai thác, sử dụng nước, xả thải vào nguồn nước, xử lý triệt để các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tài nguyên nước.
Ba là, cần phải quản lý chặt chẽ việc thăm dò, khai thác sử dụng nước dưới đất; việc khai thác, sử dụng cũng như quản lý nguồn nước phải đạt được yêu cầu bền vững, có nghĩa là: Tài nguyên nước cần phải được sử dụng một cách hợp lý, tiết kiệm và thực sự hiệu quả, phải được bảo vệ, kiểm soát cả về số lượng và chất lượng. Về thuế tài nguyên nước ở Việt Nam cũng cần đánh giá lại mức thu, tình hình thu để không bỏ sót đối với nhiều đối tượng cần thu.
Ngoài các giải pháp nêu trên chúng ta cần phải tiến hành tuyên truyền, giáo dục pháp luật về tài nguyên nước và bảo vệ nguồn nước trong nhân dân bằng các hình thức trao đổi trực tiếp với các địa phương để phổ biến Luật Tài nguyên nước và xem xét tình hình thực hiện, hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền về pháp luật quy định đối với tài nguyên nước.
Đánh giá được tầm quan trọng của tài nguyên nước, Việt Nam cũng đã có những sự quan tâm nhất định về bảo vệ và kiểm soát ô nhiễm, suy thoái tài nguyên nước thể hiện thông qua việc ban hành hệ thống các văn bản quy phạm cụ thể quy định về vấn dề này. Tuy nhiên, việc thực hiện bảo vệ tài nguyên nước ở nước ta còn nhiều khó khăn cần khắc phục, vì vậy Đảng và Nhà nước cần có sự quan tâm và chỉ đạo sát sao hơn nữa về vấn đề này, đồng thời mỗi người dân cần tự nâng cao ý thức của mình về bảo vệ nguồn tài nguyên nước.
Trên đây là phần giải đáp thắc mắc của chúng tôi về vấn đề: Thực tiễn việc kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước tại Việt Nam.Nếu trong quá trình giải quyết còn gì thắc mắc bạn có thể liên hệ chúng tôi qua tổng đài tư vấn pháp luật qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy để được giải đáp.
Trân trọng./.