Tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích theo pháp luật Việt Nam

Việt Nam được biết đến như là một trung tâm đa dạng sinh học của thế giới với các hệ sinh thái tự nhiên phong phú và đa dạng. Việt Nam cũng là nơi được biết đến với nhiều nguồn gen hoang dã có giá trị, đặc biệt là các cây thuốc, các loài hoa, cây cảnh nhiệt đới, v.v. Tuy nhiên, đa dạng sinh học ở nước ta đang bị suy thoái nhanh. Diện tích các khu vực có các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng bị thu hẹp dần. Số loài và số lượng cá thể của các loài hoang dã bị suy giảm mạnh. Đề tài “Tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích theo pháp luật Việt Nam” được thực hiện nhằm cung cấp cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc đề xuất xây dựng cơ chế, chính sách tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích (ABS) từ nguồn gen ở Việt Nam.


Danh mục tài liệu tham khảo:

  • Nghị định 82/2006/NĐ-CP Về quản lý hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, tái xuất khẩu, nhập nội từ biển, quá cảnh, nuôi sinh sản, nuôi sinh trưởng và trồng cấy nhân tạo các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm;
  • Nghị định 32/2006/NĐ-CP Về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm;
  • Nghị định số 88/2010/NĐ-CP ngày 16 tháng 8 năm 2010 “Quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về quyền đối với giống cây trồng”
  • Giáo trình Luật Môi Trường, Trường Đại học Luật Hà Nội. NXB Công an nhân dân, Hà Nội – 2006.
  • Giáo trình Luật Môi Trường, Bộ Giáo dục và Đào tạo Đại học Huế. NXB Công an nhân dân, Hà Nội – 2007.
  • Tập bài giảng Pháp luật môi trường trong kinh doanh, Trường Đại học Luật Hà Nội NXB Tư pháp,Hà Nội – 2013
  • Pháp luật về tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích từ tiếp cận nguồn gen, khoá luận tốt nghiệp, Nguyễn Thị Dương, Hà Nội – 2009.

Khái quát về tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích

Khái niệm tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích

Theo Luật ĐDSH năm 2008 có thể hiểu nguồn gen là tất cả các gen của động thực vật, vi sinh vật có ý nghĩa di truyền, duy trì nòi giống và quy định đặc tính của sinh vật. Các gen này có thể nằm trong các loại động thực vật, vi sinh vật hay trong các mẫu động vật, thực vật vi sinh vật và nấm mang các đơn vị chức nâng di truyền còn khả năng tái sinh.

Tiếp cận nguồn gen theo khoản 29 điều 3 Luật ĐDSH thì “Tiếp cận nguồn gen là hoạt động điều tra, thu thập nguồn gen để nghiên cứu phát triển, sản xuất sản phẩm thương mại.”

Chia sẻ lợi ích từ việc tiếp cận nguồn gen là việc phân chia các lợi ích thu được từ hoạt động điều tra, thu thập, khai thác, sử dụng nguồn gen cho các chủ thể liên quan bao gồm: Nhà nước; Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được giao quản lý nguồn gen; tổ chức, cá nhân được cấp giấy phép tiếp cận nguồn gen và các bên liên quan khác được quy định trong giấp phép tiếp cận nguồn gen. Lợi ích thu được có thể phân chia thành lợi ích tiền tệ và lợi ích phi tiền tệ như: chia sẻ các kết quả nghiên cứu, hợp tác nghiên cứu, chuyển giao công nghệ có liên quan với các điều kiện ưu đãi cho bên cung cấp nguồn gen . . .

Tác động của tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích từ tiếp cận nguồn gen

Nếu lợi ích thu được từ nguồn gen được chia sẻ công bằng, hợp lý thì không những đảm bảo công bằng xã hội mà còn góp phần thiết thực vào việc xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, nếu khai thác, sử dụng nguồn gen không gắn với bảo tồn phát triển nguồn gen thì sẽ dẫn đến nguồn gen bị khai thác quá mức, cạn kiệt, công bằng xã hội không được đảm bảo, đời sống của người dân có thể gặp khó khăn do lợi ích từ tiếp cận nguồn gen không được chia sẻ hoặc chia sẻ không hợp lý.

Thực trạng tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích từ nguồn gen ở Việt Nam hiện nay

Trước khi có luật ĐDSH các quy định của pháp luật về tiếp cận nguồn gen nằm rải rác trong khá nhiều văn bản, còn vấn đề chia sẻ lợi ích từ tiếp cận nguồn gen thì hầu như chưa được quan tâm trong các văn bản pháp lý trong nước. Luật ĐDSH đã tạo cơ sở pháp lý cho các tổ chức, cá nhân trong các hoạt động điều tra, thu thập, trao đổi, nghiên cứu, chọn tạo. Tuy nhiên sự hạn chế của văn bản này nằm ở các quy định chung chung, mới chỉ mang tính khuôn mẫu. Tuy đã có nghị định hướng dẫn, nhưng trong Nghị định 65/2010 chưa nêu hết ra được các vấn đề trong luật ĐDSH. Mặt khác, vấn đề tiếp cận nguồn gen được đề cập trong nhiều văn bản khác nhau song lại thiếu sự đồng bộ thống nhất, gây ra nhiều cách hiểu sai về cùng một vấn đề. Đây là các văn bản đầy đủ nhất về tiếp cận nguồn gen cho đến thời điểm này, song về cơ bản lại không đề cập tới việc chia sẻ lợi ích. Thực tế cho thấy, cụm từ “tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích từ tiếp cận nguồn gen” lại khá mới mẻ, thậm chí nhiều người chưa biết đến khái niệm này. Không chỉ có thế, mà ngay vấn đề này cũng rất ít khi được các nhà nghiên cứu và quản lý đề cập.

Chính vậy mà quy định này của pháp luật chưa thực sự đi vào đời sống xã hội. Biểu hiện của nó chính là thực trạng suy giảm nghiêm trọng nguồn gen ở Việt Nam. Ngoài nguồn gen vật nuôi, cây trồng nhiều nguồn gen quý đang bị khai thác cạn kiệt để phục vụ cho nhu cầu cuộc sống.

Tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích theo pháp luật Việt Nam
Tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích theo pháp luật Việt Nam

Đánh giá các quy định của pháp luật về tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích từ tiếp cận nguồn gen

Chính sách của Nhà nước về tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích

Điều 5, Luật ĐDSH thể hiện chính sách của Nhà nước là khuyến khích và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân đầu tư, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ công nghệ, tri thức truyền thống vào việc bảo tồn, phát triển bền vững đa dạng sinh học, đồng thời bảo đảm việc việc kiểm soát tiếp cận nguồn gen. Chính sách của Nhà nước Việt Nam là khuyến khích tạo điều kiện cho hoạt động tiếp cận nguồn gen hợp lý trong sự quản lý của cơ quan Nhà nước. Tại Điều 15, khoản 2 của công ước ĐDSH quy định: “Mỗi bên ký kết sẽ nỗ lực tạo điều kiện cho việc tiếp cận nguồn gen cho mục đích sử dụng vì môi trường”. Như vậy, chính sách của nước ta là hoàn toàn phù hợp với nội dung của Công ước.

Tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích theo pháp luật Việt Nam

Nguyên tắc tiếp cận nguồn gen

Toàn bộ nội dung về ABS được quy định tại mục 1, Chương 5 của Luật ĐDSH, từ Điều 55 đến điều 61, và một số điều khoản liên quan được quy định tại mục 2, cùng chương V. Các nội dung của các điều khoản này đã thể hiện các nguyên tắc của Công ước Đa đạng sinh học và các định khác của pháp luật quốc tế.

Đối với nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia tối cao, vĩnh viễn đối với nguồn gen là sự cụ thể hoá nguyên tắc chủ quyền vĩnh viễn đối với tài nguyên sinh học, một nguyên tắc được các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc thừa nhận.

Nguyên tắc trách nhiệm quốc gia giữ gìn và bảo tồn nguồn gen trên lãnh thổ nước mình và sử dụng bền vững. Nguyên tắc này được ghi nhận trong Công ước ĐDSH. Vì theo nguyên tắc chủ quyền quốc gia tối cao, vĩnh viễn đối với nguồn gen quốc gia có quyền sử dụng, khai thác, định đoạt nguồn gen. Nhưng dưới cấp độ cao hơn, nguồn gen cũng là di sản chung của toàn nhân loại và do đó cộng đồng quốc tế yêu cầu quốc gia phải có trách nhiệm bảo vệ di sản chung của nhân loại trên lãnh thổ quốc gia.

Nguyên tắc đồng thuận thông báo trước và cùng thỏa thuận, nội dung của nguyên tắc này là quyền tiếp cận nguồn gen phải được sự đồng ý trước của bên ký kết cung cấp nguồn gen, ngoại trừ có các quy định khác của bên này. Giữa bên cung cấp và bên tiếp cận nguồn gen phải có sự thương lượng để thống nhất được việc tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích thu được

Đối với nội dung và nguyên tắc chia sẻ một cách công bằng và hợp lý nguồn gen.Trên cơ sở quyền tiếp cận nguồn gen có thể được điều chỉnh bằng luật quốc gia, điều kiện thoả thuận chung giữa các bên, các kết quả nghiên cứu và lợi ích thu được từ việc sử dụng nguồn gen vì mục đích thương mại hay mục đích khác phải được chia sẻ một cách công bằng, hợp lý.

Trình tự, thủ tục tiếp cận nguồn gen

Tổ chức, cá nhân có nhu cầu tiếp cận nguồn gen cần làm thủ tục theo trình tự sau: Nộp đơn đăng ký xin tiếp cận nguồn gen với UBND cấp tỉnh nơi có nguồn gen mong muốn. Sau khi được UBND cấp tỉnh cho phép tiếp cận, tổ chức, cá nhân có nhu cầu tiếp cận nguồn gen tiến hành lập Thỏa thuận tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích với tổ chức, cá nhân được giao quản lý nguồn gen. Xin xác nhận của UBND xã (hoặc các xã) nơi có nguồn gen vào các biên bản Thỏa thuận tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích. Lập hồ sơ xin Giấy phép tiếp cận nguồn gen. Nộp hồ sơ xin Giấy phép tiếp cận nguồn gen lên Bộ Tài nguyên và Môi trường nếu xin phép tiếp cận nguồn gen đối với các loài được ưu tiên bảo vệ, lên UBND cấp tỉnh đối với các trường hợp khác. Trong khoảng thời gian không quá 45 ngày kể từ khi được tiếp nhận hồ sơ, tổ chức, cá nhân có nhu cầu tiếp cận nguồn gen được trả lời chấp nhận hoặc không, hoặc phải hoàn thiện hồ sơ. Nếu được cấp Giấy phép tiếp cận nguồn gen, tổ chức thực hiện theo đúng các nội dung ghi trong Giấy phép.

Tuy nhiên, trong trình tự thủ tục tiếp cận nguồn gen nên nghiên cứu thành lập một tổ chức phù hợp là đầu mối để thu nhận đơn xin phép của các tổ chức, cá nhân có nhu cầu tiếp nhận nguồn gen. Ở Bộ Tài nguyên và Môi trường (liên quan đến việc xin phép tiếp cận nguồn gen thuộc Danh mục được ưu tiên bảo vệ), tổ chức đầu mối này nên đặt ở Cục Bảo tồn Đa dạng sinh học thuộc Tổng cục Môi trường. Tên giao dịch có thể được gọi là Văn phòng tiếp cận nguồn gen, bước đầu là kiêm nhiệm. Ở cấp tỉnh, tương tự như ở Bộ Tài nguyên và Môi trường, Văn phòng tiếp cận nguồn gen nên đặt tại Sở Tài nguyên và Môi trường.

Bên cạnh đó, việc điều tra, thu thập nguồn gen hầu như không được thực hiện ở quy mô hộ gia đình, các tổ chức. Đa số nguồn gen đều có chủ quản lý trực tiếp nhưng công cụ kỹ thuật để họ thực hiện nghĩa vụ lại đang bỏ ngỏ. Họ không biết lưu giữ nguồn gen như thế nào, nhất là đối với hai nhóm chủ thể là tổ chức, hộ gia đình và ủy ban nhân dân xã; Giấy phép tiếp cận nguồn gen cũng chưa được cơ quan có thẩm quyền xây dựng và ban hành. Để kiểm soát tiếp cận nguồn gen, Việt Nam cần quy định thu hẹp lại đối tượng nguồn gen để quản lý, nên chăng chỉ quản lý những nguồn gen quý hiếm, có giá trị kinh tế cao và những nguồn gen có tiềm năng khai thác sử dụng.

Quản lý, chia sẻ lợi ích từ tiếp cận nguồn gen

Chia sẻ công bằng và hợp lý lợi ích từ gen cũng là một trong những mục tiêu mà Công ước ĐDSH hướng tới và là nội dung của Hướng dẫn Bonn về tiếp cận nguồn gen và chia sẻ công bằng, hợp lý nguồn gen. Nội dung trên của nguyên tắc này được thể hiện tại Điều 61, Luật ĐDSH. Theo Điều 61 về Chia sẻ lợi ích từ việc tiếp cận nguồn gen[1]. Căn cứ để chia sẻ lợi ích thu được từ việc tiếp cận nguồn gen là hợp đồng ABS theo quy định của pháp luật. Một số nội dung về hợp đồng tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích được quy định tại Điều 58 của Luật ĐDSH.

Nghị định 65/2010/NĐ-CP có quy định cụ thể hơn về Quản lý và chia sẻ lợi ích thu được từ việc tiếp cận nguồn gen, theo đó các lợi ích liệt kê bao gồm cả bằng tiền và phi tiền tệ. Hơn nữa, Nghị định 65/2010/NĐ-CP đã lượng hóa được tỷ lệ phân chia đó là tổng lợi ích thu được từ việc tiếp cận nguồn gen chia sẻ cho các bên có liên quan được xác định thông qua quá trình cấp giấy phép, thoả thuận giữa các bên nhưng không thấp hơn 30% tổng lợi ích thu được quy đổi thành tiền (Khoản 2, Điều 19). Nghị định quy định, Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên tịch hướng dẫn việc quản lý sử dụng các lợi ích được chia sẻ từ việc tiếp cận nguồn gen do Nhà nước quản lý.

Vấn đề đặt ra là nếu căn cứ vào Điều 55, Điều 56, Điều 61 của Luật ĐDSH 2008 thì khó có căn cứ để chia sẻ lợi ích cho cộng đồng ở các vùng đệm của các khu bảo tồn, trong khi cộng đồng là đối tượng cần được ưu tiên chia sẻ lợi ích để khuyến khích họ tham gia bảo tồn theo cách tiếp cận bảo tồn dựa trên cộng đồng. Rõ ràng, căn cứ vào khoản 2, Điều 55, Ban quản lý khu bảo tồn, tổ chức được giao quản lý khu bảo tồn quản lý nguồn gen trong khu bảo tồn sẽ được chia sẻ lợi ích từ nguồn gen của khu bảo tồn theo Khoản 2, Điều 61. Cộng đồng sinh sống ở khu bảo tồn không là đối tượng được giao quản lý nguồn gen ở khu bảo tồn thì không được chia sẻ lợi ích từ nguồn gen đó. Hơn nữa, theo quy định pháp luật hiện hành thì diện tích vùng đệm lại không tính vào diện tích khu bảo tồn, nên càng không có căn cứ để chia sẻ lợi ích từ nguồn gen của khu bảo tồn. Giải pháp tốt nhất để đảm bảo được lợi ích của cộng đồng là văn bản hướng dẫn thi hành Luật ĐDSH về quản lý và chia sẻ lợi ích từ nguồn gen cần xác định cụ thể cộng đồng tại vùng đệm là một bên liên quan trong ba bên được chia sẻ lợi ích theo quy định tại Điều 61.

Nhưng chia như thế nào? Đây là việc mới và rất khó, vì cho đến nay chúng ta chưa có kinh nghiệm và cũng không có một khuôn mẫu nào ở Việt Nam. Theo lẽ thường, việc chia sẻ phải dựa trên cơ sở pháp luật của Nhà nước và sự thoả thuận giữa các bên. Điều 15 của Công ước Đa dạng sinh học nói về “tiếp cận các nguồn tài nguyên di truyền” có đề cập đến quyền lợi và nghĩa vụ của các bên liên quan đến các nguồn gen. Khoản 15.7 có đề cập đến việc “ chia sẻ lợi ích một cách công bằng và hợp lý trong việc sử dụng tài nguyên di truyền ” phải dựa trên các thỏa thuận chung giữa bên cung cấp tài nguyên và bên sử dụng tài nguyên, mà bên sử dụng thường là các doanh nghiệp kinh tế. Có thể kể ra những thách thức chính như sau:

– Chưa xác định được các thuộc tính của nguồn gen (nhân tố hữu hình) và tri thức liên quan đến chúng (nhân tố vô hình). Mặt khác, sự phân bố của tài nguyên này hoàn toàn không phụ thuộc vào các ranh giới hành chính các cấp, chúng lại là nguồn tài nguyên di truyền trong tự nhiên, cùng với thời gian, đã được sử dụng, được biến đổi và đang tồn tại như những của quý của thiên nhiên.

– Rất khó xác định chủ quyền, quyền sở hữu đối với nguồn gen và tri thức có liên quan trong những trường hợp cụ thể, ở góc độ địa phương, vùng, quốc gia hay liên quốc gia. Do vậy, mâu thuẫn về quyền lợi của các chủ thể luôn luôn xảy ra, việc chia sẻ lợi ích, nếu có, thường vô cùng phức tạp.

– Tính bảo thủ của nhiều phong tục tập quán địa phương, những yếu kém trong hệ thống quản lý Nhà nước, nhận thức liên quan đến tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích của cộng đồng còn thấp đều là những trở ngại không dễ vượt qua xa sẽ còn là những thách thức lâu dài về vấn đề này.

Hợp đồng tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích từ việc tiếp cận nguồn gen

Hiện nay tại Luật ĐDSH và Nghị định 65/2010 hướng dẫn Luật ĐDSH chưa có mẫu hợp đồng ABS mà mới chỉ dừng lại ở những nội dung của hợp đồng. Như đã trình bày, đây là một dạng hợp đồng mới xuất hiện ở nước ta, chưa phổ biến và nó càng khó phổ biến được khi không có mẫu hợp đồng. Chính vì vậy mà Cơ quan quản lý sớm nghiên cứu, ban hành các hướng dẫn cũng như các biểu mẫu về hợp đồng, giấy phép để áp dụng. Các mô hình về tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích cần được xây dựng thí điểm để tìm kiếm kinh nghiệm và thu thập cứ liệu cho việc luật hóa.

Một căn cứ thực tế rất quan trọng để các bên thỏa thuận trong hợp đồng là lợi ích thu được từ tiếp cận nguồn gen. Hình thức chia sẻ lợi ích nên phù hợp với loại hình lợi ích thu được nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan. Luật ĐDSH chưa quy định về hình thức chia sẻ lợi ích gắn với từng loại hình lợi ích cụ thể.

Do đó, pháp luật nên có những quy định cụ thể giúp đỡ họ như quy định về thành lập cơ quan tư vấn hay hình thức chia sẻ lợi ích từ việc tiếp cận nguồn gen. Ngoài ra, hợp đồng ABS là sự thỏa thuận giữa tổ chức, cá nhân được giao quản lý nguồn gen và tổ chức, cá nhân tiếp cận nguồn gen. Song Nhà nước lại là bên được chia sẻ lợi ích, nhưng làm thế nào để đảm bảo lợi ích của Nhà nước khi không có đại diện của Nhà nước trong việc tham gia đàm phán, soạn thảo hợp đồng hay xác định một tỷ lệ lợi ích cố định mà Nhà nước được nhận.

Đăng ký bản quyền tri thức truyền thống về nguồn gen

Luật pháp nước ta quy định rõ Nhà nước bảo hộ bản quyền tri thức truyền thống về nguồn gen, khuyến khích và hỗ trợ tổ chức, cá nhân đăng ký bản quyền tri thức truyền thống về nguồn gen. Luật Đa dạng sinh học nêu rõ Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì hướng dẫn thủ tục đăng ký bản quyền tri thức truyền thống về nguồn gen. Nhưng thực tế là các cơ quan nhà nước về sở hữu trí tuệ đang gặp vô vàn khó khăn nên sự quan tâm đến thủ tục đăng ký bản quyền tri thức truyền thống về nguồn gen, với tất cả những phức tạp, rối ren của vấn đề, còn chưa được giải quyết thỏa đáng. Trên thực tế, Luật Sở hữu trí tuệ mới chỉ quy định quyền sở hữu đối với giống cây trồng (là giống cây trồng và vật liệu nhân giống). Hơn nữa, như đã được nhiều nhà khoa học lưu ý, đối với nhiều người dân ở đồng bằng, ở thành phố còn chưa ý thức được việc đăng ký bản quyền, thì đối với những người dân ở vùng sâu, vùng xa, nơi có nhiều nguồn gen có giá trị đang được quan tâm tiếp cận, việc đăng ký bản quyền còn xa lạ lắm. Mà nếu có hiểu được thì việc thực hiện đủ và đúng các thủ tục đăng ký cũng không hề đơn giản, thực sự trở thành rào cản khó qua.

Tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích theo pháp luật Việt Nam

Thủ tục, cơ chế đăng ký bản quyền tri thức truyền thống về nguồn gen về cơ bản có thể phải phù hợp với thủ tục, cơ chế đăng ký bản quyền đối với giống cây trồng nêu trong Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam sửa đổi bổ sung 2009. Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các bộ ngành liên quan nhanh chóng bổ sung, hoàn chỉnh cơ chế thích hợp cho việc đăng ký bản quyền tri thức truyền thống về nguồn gen rất quan trọng này. Những nội dung chính cần quan tâm có thể dựa theo Nghị định số 88/2010/NĐ-CP ngày 16 tháng 8 năm 2010 “Quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về quyền đối với giống cây trồng”.

Về xuất khẩu nguồn gen

Một khía cạnh của vấn đề ABS là xuất khẩu nguồn gen.Với quy định Danh mục những giống cây trồng và vật nuôi quý hiếm không được xuất khẩu ra nước ngoài được Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Thuỷ sản (nay là Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn) ban hành, Danh mục những loài động vật, thực vật quý hiếm ban hành theo Nghị định 32/2006/NĐ-CP Về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm, trường hợp thuộc sự điều chỉnh của Nghị định 82/2006/NĐ-CP ngày 10/8/2006 của Chính Phủ về quản lý hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, tái xuất khẩu, nhập nội từ biển, quá cảnh, nuôi sinh sản, nuôi sinh trưởng và trồng cấy nhân tạo các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm không thể bao quát tất cả những nguồn gen quý hiếm thuộc chủ quyền Việt Nam. Như vậy, các nguồn gen sinh vật nằm ngoài những đối tượng nêu trên, chỉ cần qua cửa kiểm dịch là có thể mang ra nước ngoài. Chính vì vậy, trong thời gian vừa qua đã không có ít tổ chức, cá nhân nước ngoài trên danh nghĩa nghiên cứu khoa học, sưu tầm, du lịch đã mang nguồn gen của nước ta về nước kinh doanh, tiến hành lai tạo giống mới hoặc khôi phục giống cho mục đích thương mại. Cũng có trường hợp cá nhân, tổ chức nước ngoài làm việc với đối tác trong nước để tiếp cận nguồn gen cũng đã cung cấp cho đối tác trong nước một số lợi ích nhất định, nhưng thường không thoả đáng và chỉ là phần rất nhỏ so với lợi nhuận mà phía nước ngoài thu được.

Hơn nữa, do trang thiết bị trong nước thiếu nên các nhà khoa học phải gửi mẫu ra nước ngoài phân tích định loại, nhưng lại chưa có thoả thuận rõ ràng về đảm bảo quyền lợi cho phía Việt Nam. Nhiều nơi công bố loài mới của Việt Nam lại là của người nước ngoài, vật mẫu chuẩn nằm ở nước ngoài. Rõ ràng, việc quy định rõ từng loại sinh vật nào được phép, loại nào bị cấm mang ra khỏi biên giới là không thể thực hiện được vì nước ta còn vô số loài khoa học chưa thống kê hết, ngay cả những loài phổ biến hiện tại chưa có giá trị sử dụng cũng có thể mang lợi ích lớn trong tương lai.

Đề xuất giải pháp tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích ở Việt Nam

Giải pháp chính sách

Trong tình hình hiện nay, việc lập ra văn bản pháp lí mới hoàn toàn hay sửa đổi lại một loạt các văn bản pháp lí có liên quan đến tài nguyên sinh vật để đề cập cụ thể vấn đề tiếp cận và chia sẻ lợi ích nguồn gen sẽ tốn rất nhiều thời gian, công sức và khó có tính khả thi. Do đó, giải pháp về chính sách là sửa đổi lại Quy chế Quản lí và bảo tồn nguồn gen, nâng cấp lên là qui chế do Chính phủ ban hành chứ không phải chỉ là quy chế của một Bộ. Bên cạnh đó cần nâng cao khả năng thực thi pháp luật tại các địa phương

Nâng cao nhận thức

Bên cạnh việc xây dựng một khung pháp lí cho tiếp cận và chia sẻ lợi ích nguồn gen, thì việc nâng cao nhận thức về tiếp cận và chia sẻ lợi ích nguồn gen cũng có vai trò thiết yếu, nhất là nâng cao nhận thức cho cộng đồng địa phương. Khi người dân nhận thức được lợi ích chính đáng mà họ được hưởng và lợi ích đó được pháp luật bảo vệ thì họ sẽ tự động đòi hỏi quyền lợi của mình, đồng thời ý thức bảo vệ đa dạng sinh học của cộng đồng cũng được cải thiện. Cộng đồng cũng phải ý thức về giá trị của các tri thức truyền thống. Ngoài việc xây dựng cơ chế pháp lí và nâng cao nhận thức là chúng ta phải tiếp tục xúc tiến điều tra, kiểm kê đa dạng sinh học và khôi phục, bảo tồn các giống cây trồng vật nuôi có giá trị. Tăng cường áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để tìm ra các nguồn gen cây trồng, vật nuôi mới để bổ sung, lưu trữ vào ngân hàng gen quốc gia.

Một số kiến nghị

– Tăng cường điều tra khảo sát nhằm bổ sung, quản lý và khai thác có hiệu quả các nguồn gen động, thực vật…đang được lưu giữ tại ngân hàng gen quốc gia và mạng lưới trên toàn quốc.

– Xây dựng hệ thống mạng lưới các cơ quan nghiên cứu nhằm bảo tồn và chia sẻ lợi ích các nguồn gen một cách thống nhất và hiệu quả.

– Tăng cường nâng cao nhận thức người dân nhằm phát huy các giá trị tri thức bản địa để chia sẻ lợi ích, kinh nghiệm và áp dụng vào cuộc sống.

– Xây dựng một trang Web về phương pháp tiếp cận và chia sẻ lợi ích nguồn gen.

– Tăng cường năng lực, nhận thức cho các cán bộ quản lý, nghiên cứu khoa học kỹ thuật nhằm bảo tồn nguồn gen và phát hiện những loài gen quý.

– Xây dựng các văn bản pháp quy mang tính thống nhất trong việc tiếp cận và chia sẻ lợi ích nguồn gen.

– Vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của các tổ chức, cá nhân tạo giống cây, con mới cần đư­ợc quy định đầy đủ.

– Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về trao đổi kinh nghiệm trong việc tiếp cận và chia sẻ lợi ích nguồn gen, đồng thời kêu gọi sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế.

Như vậy, Luật ĐDSH 2008 và Nghị định 65/2010/NĐ-CP đã nêu được các nội dung chủ yếu quan trọng về vấn đề mới, nóng, thời sự như tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích. Đây có thể được xem như là một sự nỗ lực lớn và bước tiến quan trọng trong công tác ban hành pháp luật trong bối cảnh hội nhập quốc tế, do đây không chỉ là vấn đề của quốc gia mà còn là vấn đề quốc tế vẫn đang trong quá trình thương lượng và hoàn thiện pháp luật điều chỉnh. Việc xây dựng các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành Luật ĐDSH cần được đẩy mạnh, theo đúng kế hoạch, lộ trình được duyệt.

Lợi ích thu được từ việc tiếp cận nguồn gen phải được chia sẻ cho cả ba bên: 1 – Nhà nước; 2- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được giao quản lý nguồn gen; 3 – Tổ chức, cá nhân được cấp giấy phép tiếp cận nguồn gen và các bên có liên quan khác được quy định trong giấy phép tiếp cận nguồn gen.


Trên đây là toàn bộ thông tin mà chúng tôi cung cấp đến bạn về vấn đề: Tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích theo pháp luật Việt Nam. Để được tư vấn cụ thể hơn bạn vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn luật trực tuyến qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy.

Trân trọng./.

phone-call

GỌI HỎI ĐÁP MIỄN PHÍ

Scroll to Top