Phân tích các quy định pháp luật nhằm hạn chế tình trạng giao dịch nội gián và nêu ý kiến pháp lý thông qua thực tiễn hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam

Luật Chứng khoán hiện hành được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007, Luật đã được sửa đổi, bổ sung năm 2010. Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo lập được khung pháp lý có hiệu lực cao, tương đối đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, điều chỉnh toàn diện về chứng khoán và thị trường chứng khoán, bảo đảm cho TTCK hoạt động công bằng, công khai, minh bạch, an toàn, chất lượng, hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho TTCK Việt Nam phát triển lành mạnh, ổn định và vững chắc, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước; Luật cũng đã từng bước phù hợp với luật pháp, thông lệ quốc tế, tạo nền móng cho TTCK Việt Nam có khả năng hội nhập với các thị trường vốn quốc tế và khu vực, góp phần vào thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng và Nhà nước về hội nhập quốc tế. Thị trường chứng khoán lớn lên từng ngày, bên cạnh những phát triển tích cực là những tiêu cực mà nổi bật là hiện tượng giao dịch nội gián. Để tìm hiểu kỹ hơn về hiện tượng này, trong khuôn khổ bài tập lớn cuối kỳ, em sẽ đi phân tích, làm rõ đề bài số 12: “Phân tích các quy định pháp luật nhằm hạn chế tình trạng giao dịch nội gián và nêu ý kiến pháp lý thông qua thực tiễn hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam” để có được cái nhìn cụ thể hơn về giao dịch nội gián.


Khái quát giao dịch nội gián

Giao dịch nội gián là việc mua hoặc bán chứng khoán bởi một người có khả năng tiếp cận các thông tin bí mật, chưa được công bố về loại chứng khoán đó. Hay có thể nói giao dịch nội gián là hành vi của nhà đầu tư cá nhân hoặc nhà đầu tư tổ chức có được thông tin nội bộ có giá trị và sử dụng thông tin đó trước khi thông tin được công bố công khai nhằm mua – bán cho chính mình hoặc cung cấp cho bên thứ ba để hưởng lợi. Cụ thể về các khoản giao dịch như sau:

  • Sử dụng thông tin nội bộ để thực hiện mua – bán chứng khoán của công ty đại chúng, quỹ đại chúng cho chính mình hoặc bên thứ ba.
  • Tiết lộ, cung cấp thông tin nội bộ hoặc tư vấn cho bên thứ ba mua – bán chứng khoán trên cơ sở thông tin nội bộ.

Việc mua bán nội bộ có thể bị coi là phạm pháp hay không phụ thuộc vào thời gian mà hành động này được thực hiện. Nó là phạm pháp nếu các thông tin, tài liệuvẫn chưa được công bố ra ngoài vì như vậy sẽ không công bằng đối với các nhà đầu tư khác không nắm được các thông tin này. Những người thực hiện mua bán nội bộ thường sẽ phải trả tiền để mua lại bất kì thông tin nào còn chưa được công bố. Giám đốc không phải là người duy nhất có khả năng thực hiện hành vi này; những người như là người môi giới chứng khoán, thậm chí là các thành viên trong gia đình của giám đốc hay môi giới cũng có thể thực hiện được hoạt động giao dịch nội gián.

Mua bán nội bộ sẽ là hợp pháp nếu như các thông tin nội bộ đã được công bố ra ngoài. Vào thời điểm đó thì những người mua bán nội bộ sẽ không có lợi thế trực tiếp so với các nhà đầu tư khác. Uỷ ban chứng khoán (SEC) vẫn thường yêu cầu tất cả các nhân viên trong một công ty báo cáo về các giao dịch của họ. Vì các nhân viên làm việc trong công ty có thể có những hiểu biết, thông tin về tình hình hoạt động công ty của họ nên sẽ là khôn ngoan nếu các nhà đầu tư xem xét các bản báo cáo trên để xem xét liệu rằng các nhân viên nội bộ trong công ty có mua bán chứng khoán một cách hợp pháp hay không.

Các quy định pháp luật nhằm hạn chế tình trạng giao dịch nội gián

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam hiện nay về cơ bản đã đưa ra được một số nguyên tắc chung về các hành vi giao dịch nội bộ, tuy nhiên chỉ dừng ở mức độ xem xét hành vi này dưới góc độ pháp luật hành chính, mà chưa xem xét các góc độ khác như trách nhiệm dân sự và trách nhiệm hình sự của hành vi kể trên. Giao dịch nội gián phải được xem là một dạng tội phạm tài chính và đấu tranh với các hành vi vi phạm này là để tạo ra một thị trường tài chính lành mạnh, tin cậy và bảo vệ cộng đồng nhà đầu tư. Trong kinh doanh chứng khoán, các hành vi bị cấm được quy định tại Điều 9 Luật Chứng khoán năm 2006, sửa đổi bổ sung năm 2010 như sau:

“Điều 9. Các hành vi bị cấm

Trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện các hành vi gian lận, lừa đảo, tạo dựng thông tin sai sự thật hoặc bỏ sót thông tin cần thiết gây hiểu nhầm nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng, niêm yết, giao dịch, kinh doanh, đầu tư chứng khoán, dịch vụ về chứng khoán và thị trường chứng khoán.

Công bố thông tin sai lệch nhằm lôi kéo, xúi giục mua, bán chứng khoán hoặc công bố thông tin không kịp thời, đầy đủ về các sự việc xảy ra có ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán trên thị trường.

Sử dụng thông tin nội bộ để mua, bán chứng khoán cho chính mình hoặc cho người khác; tiết lộ, cung cấp thông tin nội bộ hoặc tư vấn cho người khác mua, bán chứng khoán trên cơ sở thông tin nội bộ.

Thông đồng để thực hiện việc mua, bán chứng khoán nhằm tạo ra cung, cầu giả tạo; giao dịch chứng khoán bằng hình thức cấu kết, lôi kéo người khác liên tục mua, bán để thao túng giá chứng khoán; kết hợp hoặc sử dụng các phương pháp giao dịch khác để thao túng giá chứng khoán.

Thực hiện nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán khi chưa được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp phép hoặc chấp thuận”.

Những quy định nhằm hạn chế tình trạng giao dịch nội gián được quy định tại Điều 181a, Điều 181b, Điều 181c Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 như sau:

“Điều 181a. Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán

Người nào cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật liên quan đến việc chào bán, niêm yết, giao dịch, hoạt động kinh doanh chứng khoán, tổ chức thị trường, đăng ký, lưu ký, bù trừ hoặc thanh toán chứng khoán gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tiền từ một trăm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến hai năm.

Phân tích quy định nhằm hạn chế tình trạng giao dịch nội gián
Phân tích quy định nhằm hạn chế tình trạng giao dịch nội gián

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm:

a) Có tổ chức;

b) Thu lợi bất chính lớn;

c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng;

d) Tái phạm nguy hiểm.

Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

Điều 181b. Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán

Người nào biết được thông tin liên quan đến công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng chưa được công bố mà nếu được công bố có thể ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán của công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng đó mà sử dụng thông tin này để mua bán chứng khoán hoặc tiết lộ, cung cấp thông tin này hoặc tư vấn cho người khác mua bán chứng khoán trên cơ sở thông tin lớn, thì bị phạt tiền từ một trăm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

a) Có tổ chức;

b) Thu lợi bất chính rất lớn hoặc đặc biệt lớn;

c) Gây hậu quả nghiêm trọng;

d) Tái phạm nguy hiểm.

Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

Điều 181c. Tội thao túng giá chứng khoán

Người nào thực hiện một trong các hành vi thao túng giá chứng khoán sau đây gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tiền từ một trăm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

a) Thông đồng để thực hiện việc mua bán chứng khoán nhằm tạo ra cung cầu giả tạo;

b) Giao dịch chứng khoán bằng hình thức cấu kết, lôi kéo người khác liên tục mua bán.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

a) Có tổ chức;

b) Thu lợi bất chính lớn;

c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng;

d) Tái phạm nguy hiểm.

Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”

Như vậy,việc sửa đổi và bổ sung các tội trong lĩnh vực tài chính đã làm nền tảng, cơ sở pháp lý quan trọng cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đấu tranh, xét xử các tội phạm trong lĩnh vực này. Vì một trong những nguyên tắc cơ bản để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người pham tội là: “Chỉ người nào phạm tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự” (Điều 2). Do vậy, cơ sở để xác định và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong lĩnh vực tài chính phải được Bộ luật Hình sự luật hóa. Tuy nhiên, với phạm vi sửa đổi, bổ sung hẹp nên Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2009 chưa bao quát hết các tội phạm, các tình tiết, các dấu hiệu và đặc biệt có nhiều tội phạm mới xuất hiện trong lĩnh vực tài chính với tính chất mức độ ngày càng đa dạng phức tạp, thủ đoạn tinh vi đã và đang gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội. Đây là một trong những vướng mắc, thách thức lớn cho công tác phòng, chống và xử lý tội phạm trong lĩnh vực tài chính trong bối cảnh hệ thống pháp luật hình sự hiện hành chưa theo kịp, chưa có những thay đổi thích ứng và các hành vi phạm tội mới trong giai đoạn hiện nay chưa được quy định trong Bộ luật Hình sự, trong đó có nhiều hành vi đặc biệt nguy hiểm và gây hậu quả nghiêm trọng như: Các hành vi mua bán, sử dụng hóa đơn, chứng từ trái phép; các hành vi thao túng ngân hàng thương mại, hành vi mua bán khống chứng khoán; gian lận hoàn thuế xuất nhập khẩu thông qua việc chuyển giá, trốn thuế trong việc tạm nhập, tái xuất hàng hóa, gian lận thuế trong kinh doanh tư vấn pháp luật; gian lận trong định giá tài sản; sử dụng công nghệ cao rút tiền từ ngân hàng, rút tiền từ máy rút tiền ATM…

Thực tiễn từ sau khi Bộ luật Hình sự sửa đổi có hiệu lực (ngày 01/01/2010), lần đầu tiên một đối tượng bị khởi tố, điều tra tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán. Tháng 11/2010, cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can và bắt giam đối với ông Lê Văn Dũng, nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc Công ty Dược Viễn Đông về hành vi thao túng giá chứng khoán. Trước khi có Bộ luật Hình sự thể chế hoá các tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán, trên thị trường chứng khoán Việt Nam cũng xảy ra và đã xử lý một số vụ liên quan đến lừa đảo trong lĩnh vực chứng khoán áp dụng các điều luật tương tự trong Bộ luật Hình sự năm 1999, một số vụ án hình sự liên quan đến hành vi bị cấm trên thị trường xảy ra ở nước ta thời gian qua đã được cơ quan tiến hành tố tụng xử lý như: Vụ làm giả cổ phiếu của Ngô Quốc Hoàng năm 2005; Vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Lý Thị Trúc Quỳnh (Trưởng Phòng khu vực số 9, Công ty cổ phần Bảo hiểm Bảo Minh tại Hà Nội) bị truy tố về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” do đã lừa đảo môi giới cổ phiếu, chiếm đoạt hàng chục tỷ đồng (tháng 12/2005); Vụ in cổ phiếu giả của Lý Hữu Hoàng. Như vậy, trách nhiệm hình sự với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán nói chung và hành vi bị cấm trên thị trường chứng khoán nói riêng đã được từng bước quy định trong các văn bản pháp luật và áp dụng trong thực tiễn. Việc quy định và cụ thể hoá các tội danh chứng khoán trong Bộ luật Hình sự là một bước tiến trong việc áp dụng trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực chứng khoán. Tuy nhiên, việc triển khai áp dụng còn có một số vướng mắc như tiêu chí như thế nào để xem là “có thể ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán”, “gây hậu quả nghiêm trọng”, thực tế hoạt động của thị trường chứng khoán, việc quy định mức gây hậu quả hoặc thu lợi bất chính thấp – tức là hình sự hóa một hành vi đáng lẽ ra chỉ áp dụng xử lý hành chính – sẽ không phù hợp với thực tiễn xử lý vi phạm hiện nay về chứng khoán. Qua công tác thanh tra, kiểm tra của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cho thấy, để thực hiện hành vi thao túng giá chứng khoán, đối tượng thực hiện phải nắm giữ một khối lượng cổ phiếu (có thể từ 20 – 30% số lượng cổ phiếu đang lưu hành), phải bỏ ra một lượng tiền lớn để mua, bán cổ phiếu (thường vài chục tỷ đồng trở lên) thì mới có thể giao dịch, trả phí giao dịch… Hơn nữa, hiện nay, chu kỳ thanh toán giao dịch chứng khoán là T+ 3 – tức là mua bán chứng khoán ngày T thì sau 3 ngày chứng khoán/tiền mặt mới về đến tài khoản – và với biên độ dao động giá trên các sàn hiện nay thì chỉ cần giao dịch trong một vài phiên là có thể thu lời trên 200 triệu đồng. Theo quy định về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán, nếu cổ phiếu tăng trần, hoặc giảm sàn 5 phiên liên tiếp mà không theo xu hướng chung của thị trường, Sở Giao dịch chứng khoán sẽ yêu cầu công ty niêm yết giải trình, công bố thông tin và cổ phiếu được đưa vào diện theo dõi, giám sát. Như vậy, để thực hiện hành vi thao túng giá thì không thể thực hiện trong một vài phiên giao dịch mà phải có một thời gian dài.

Mặt khác, cơ sở để xác định mức độ trách nhiệm hình sự nên dựa trên hành vi để định tội. Vì đây là tội phạm mang tính vật chất nên đánh giá mức độ nghiêm trọng căn cứ vào hậu quả gây ra như quy định hiện hành là phù hợp trên cơ sở tỷ lệ (%) biến động về giá chứng khoán và phù hợp với quy mô vốn của doanh nghiệp, tuy nhiên để xác định mức độ hậu quả xảy ra phải phù hợp với mức độ phát triển của thị trường cũng như căn cứ để xác định mức độ hậu quả xảy ra như thế nào. Cơ sở để xác định trách nhiệm hành chính đối với hành vi giao dịch bị cấm đã được quy định trong Luật Chứng khoán và Nghị định xử phạt vi phạm hành chính. Theo quy định hiện hành Nghị định 108/2013/NĐ-CP ngày 23/9/2013 quy định cụ thể hoá các mức xử phạt đối với các hành vi giao dịch bị cấm trên thị trường chứng khoán. Trách nhiệm hành chính được áp dụng đối với các hành vi này là cảnh cáo và phạt tiền. Ngoài ra, còn bổ sung thêm một số biện pháp bổ sung như đình chỉ hoặc huỷ bỏ giấy phép hành nghề, thu hồi, hủy bỏ giấy phép hoạt động của công ty; yêu cầu ngừng hoặc đình chỉ tư cách thành viên của Sở Giao dịch…

Việc thực hiện những điều khoản bổ sung này được hướng dẫn tại Điều 4, Điều 5, Điều 6 Thông tư liên tịch số 10/2013/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC-BTC ngày 26/6/2013 hướng dẫn áp dụng một số điều của Bộ luật hình sự về các tội phạm trong lĩnh vực thuế, tài chính – kế toán và chứng khoán. Trong lĩnh vực chứng khoán, TT 10 hướng dẫn việc xử lý hình sự đối với 3 tội gồm: cố ý thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán; tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán và tội thao túng giá chứng khoán.

Đối với tội cố ý thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán (Điều 181a, Bộ luật Hình sự), TT 10 hướng dẫn, việc cố ý thông tin sai lệch là người phạm tội công bố thông tin sai sự thật liên quan đến hoạt động của công ty đại chúng, tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết… như công bố thông tin không đúng với thông tin trong các hồ sơ về chào bán chứng khoán; đăng ký niêm yết; lưu ký, bù trừ, thanh toán chứng khoán… Che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán là người phạm tội không công bố hoặc cố ý công bố không đầy đủ thông tin trong các hồ sơ về chào bán chứng khoán, đăng ký niêm yết, giao dịch chứng khoán…

Chủ thể của tội cố ý thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán gồm: chủ tịch HĐQT hoặc tổng giám đốc, giám đốc tài chính hoặc kế toán trưởng của các tổ chức: phát hành, niêm yết, đăng ký giao dịch, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán; người đại diện theo pháp luật của các tổ chức: tư vấn và bảo lãnh phát hành, tổ chức kiểm toán được chấp thuận, người trực tiếp thực hiện tư vấn phát hành, thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính, người được uỷ quyền công bố thông tin; người đại diện theo pháp luật của tổ chức đăng ký, lưu ký chứng khoán; những người khác có thể là đồng phạm của tội này…

Các tình tiết là yếu tố định khung tăng nặng hình phạt quy định tại Điều 181a được hiểu: gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp gây thiệt hại về vật chất cho NĐT với số tiền từ 1 đến dưới 3 tỷ đồng; gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng nếu mức thiệt hại từ 3 tỷ đồng trở lên… Thu lợi bất chính lớn là thu được khoản lợi có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên từ thực hiện hành vi phạm tội cố ý thông tin sai lệch, hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán.

Khi hướng dẫn về tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán (Điều 181b, Bộ luật Hình sự), TT 10 quy định, thông tin nội bộ được hiểu là những thông tin liên quan đến tình hình hoạt động của công ty đại chúng, hoặc quỹ đại chúng chưa được công bố, mà nếu công bố có thể ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán của công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng đó. Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán bao gồm các hành vi: sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán cho chính mình, cho người khác; tiết lộ thông tin nội bộ hoặc tư vấn cho người khác mua, bán chứng khoán trên cơ sở thông tin nội bộ.

Đáng chú ý, chủ thể của tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán bên cạnh các đối tượng gồm: thành viên HĐQT, ban kiểm soát, tổng/phó tổng giám đốc, giám đốc tài chính, kế toán trưởng của công ty đại chúng; thành viên ban đại diện quỹ đại chúng; cổ đông lớn của công ty đại chúng, quỹ đại chúng, còn có người kiểm toán báo báo cáo tài chính của công ty đại chúng, quỹ đại chúng; người hành nghề chứng khoán của CTCK, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán…

Một số tình tiết là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt đối với tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán: thu lợi bất chính lớn là thu được một khoản lợi có giá trị từ 500 triệu đồng đến dưới 1,5 tỷ đồng từ việc thực hiện hành vi phạm tội mà có; thu lợi bất chính rất lớn hoặc đặc biệt lớn là thu được một khoản lợi có giá trị từ 1,5 tỷ đồng trở lên. Gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp gây thiệt hại về vật chất cho NĐT với số tiền từ 1 tỷ đồng trở lên.

Đối với tội thao túng giá chứng khoán, TT 10 quy định, gây hậu quả nghiêm trọng là gây thiệt hại vật chất cho NĐT với số tiền từ 1 tỷ đồng – dưới 3 tỷ đồng; gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng là gây thiệt hại về vật chất cho NĐT với số tiền từ 3 tỷ đồng trở lên… Thu lợi bất chính lớn quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 181c Bộ Luật hình sự là trường hợp thu được một khoản lợi có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên từ thực hiện hành vi phạm tội mà có.

Đáng chú ý, cũng giống như tội cố ý thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán, đối với tội thao túng giá chứng khoán, ngoài căn cứ vào gây hậu quả là thiệt hại về vật chất để định tội hoặc định khung hình phạt, còn căn cứ vào hành vi phạm tội có gây ra các hậu quả phi vật chất như: gây ảnh hưởng đến thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước về TTCK; làm mất niềm tin của NĐT vào TTCK; làm ảnh hưởng đến sự công bằng, tính minh bạch, công khai và an toàn của TTCK. Trong trường hợp này, phải tùy vào từng trường hợp cụ thể, để đánh giá mức độ hậu quả do tội phạm gây ra thuộc loại nào: nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng.

Trách nhiệm hành chính đối với hành vi bị cấm trên thị trường chứng khoán được quy định ở pháp luật các quốc gia phổ biến là dưới hình thức phạt tiền và khiển trách công khai. Đối với mức phạt tiền thường dựa trên cơ sở khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm. Theo quy định tại Điều 29 Nghị định số 108/2013/NĐ-CP mức phạt tiền được áp dụng theo nguyên tắc ấn định đó là phạt tiền 800 triệu đồng đến 1 tỷ đồng đối với hành vi giao dịch nội bộ; phạt tiền từ 1 tỷ đồng đến 1,2 tỷ đồng đối với hành vi giao dịch thao túng thị trường chứng khoán. Ngoài ra còn áp dụng hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả là buộc nộp lại khoản lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.

Trách nhiệm dân sự đối với giao dịch bị cấm trên thị trường chứng khoán chưa được quy định cụ thể. Giao dịch bị cấm xâm phạm lợi ích của các bên trong quan hệ mua bán và sẽ gây thiệt hại cho các nhà đầu tư trong mối quan hệ giao dịch, do vậy việc áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ xảy ra trong trường hợp hành vi giao dịch bị cấm gây thiệt hại cho nhà đầu tư và có yêu cầu của nhà đầu tư trong việc đòi bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, việc thực hiện các giao dịch mua/bán trên thị trường chứng khoán và các chủ thể thực hiện hành vi bị cấm gây ra thiệt hại rất khó xác định chủ thể bị thiệt hại trong mối quan hệ trực tiếp với chủ thể thực hiện hành vi này. Do vậy, việc quy định và áp dụng trách nhiệm bồi thường để phát huy được hiệu quả phải dựa trên quyết định xử phạt của cơ quan có thẩm quyền thông qua biện pháp hành chính hay hình sự là cơ sở để áp dụng trách nhiệm bồi thường của chủ thể thực hiện hành vi bị cấm đối với công chúng đầu tư có liên quan trực tiếp trong việc thực hiện các giao dịch bị cấm này. Mặt khác, pháp luật cần quy định rõ ràng về việc xử lý đối với các khoản thu thu được từ những hành vi bất hợp pháp, theo đó các khoản thu cần được sử dụng để bồi thường cho những tổ chức, cá nhân bị thiệt hại hoặc bị tổn thất do hành vi vi phạm các giao dịch bị cấm gây ra.

Việc truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi giao dịch bị cấm có tác dụng trong việc răn đe, phòng ngừa và xử lý các vi phạm này. Tuy nhiên, có thể thấy thực tiễn diễn biến hành vi giao dịch bị cấm trên thị trường chứng khoánrất tinh vi, bởi ranh giới phân chia giữa một bên là thủ thuật đầu tư với bên còn lại là hành vi giao dịch bị cấm rất mong manh, nên sẽ khiến các cơ quan chức năng khó thu thập được các chứng cứ trực tiếp để chứng minh hành vi đó là vi phạm pháp luật. Do vậy, việc làm rõ tính nguy hại cho xã hội của hành vi giao dịch bị cấm trong lĩnh vực chứng khoán sẽ tạo ra đường lối xử lý đối với hành vi vi phạm chứng khoán chính xác, khách quan, đúng người, đúng mức độ vi phạm… là những khó khăn lớn đối với cơ quan quản lý, điều tra, truy tố, xét xử các hành vi giao dịch bị cấm trên thị trường chứng khoán. Không những thế, nghiên cứu tính chất của thị trường chứng khoán, các nhà nghiên cứu khẳng định, chứng khoán và thị trường chứng khoán lại là một phạm trù kinh tế hết sức nhạy cảm, tính rủi ro cao và dễ phát sinh tiêu cực, có thể gây ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế, xã hội, thậm chí được ví như con dao hai lưỡi. Thị trường chứng khoán Việt Nam được xem là thị trường chứng khoán mới nổi, do vậy, các hành vi vi phạm này càng có điều kiện để xuất hiện và ngày càng tinh vi hơn. Bên cạnh đó, sự hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới, là điều kiện thu hút đầu tư nhưng cũng đối mặt với nhiều thách thức đó là nhứng hành vi vi phạm mang tính quốc tế xuất hiện, các chủ thể là nhà đầu tư ngước ngoài ngày càng nhiều, mặt khác việc xây dựng và áp dụng trách nhiệm pháp lý không phù hợp sẽ phản tác dụng, có thể phản ứng tiêu cực đối với thị trường chứng khoán và nền kinh tế.

Trong bối cảnh các hành vi vi phạm trên TTCK, đặc biệt là các vi phạm về thao túng giá chứng khoán, sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán… có biểu hiện diễn biến ngày càng phức tạp và tinh vi, việc ban hành TT10 được hy vọng sẽ đấu tranh có hiệu quả hơn đối với các vi phạm hình sự trên TTCK. Qua đó, thiết thực hỗ trợ TTCK ngày càng phát triển lành mạnh, công bằng và hiệu quả hơn.

Phân tích quy định nhằm hạn chế tình trạng giao dịch nội gián
Phân tích quy định nhằm hạn chế tình trạng giao dịch nội gián

Thực tiễn hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam

Thực tiễn

Từ năm 2010 – 2012, UBCKNN và các Sở Giao dịch chứng khoán đã ban hành bình quân mỗi năm 173 quyết định xử phạt vi phạm trong hoạt động chứng khoán, với số tiền trên 10 tỷ đồng/năm. Tuy nhiên, trong con số nói trên, đa phần vi phạm thuộc về công bố thông tin không đúng với quy định. Các vụ xác định được và xử lý theo đúng tính chất vi phạm về giao dịch nội gián rất hiếm.

Ths. Nguyễn Thị Phương Luyến, Phó chủ nhiệm Bộ môn Chứng khoán (Học viện Ngân hàng) cho rằng, giao dịch nội gián không phải “của hiếm” như trên báo cáo thực tế. “Nếu so sánh với các nước có thị trường chứng khoán phát triển, ở Việt Nam, các hành vi giao dịch nội gián khá nhiều”.

Giao dịch nội gián tồn tại ở ngay các thị trường tài chính và thị trường chứng khoán những quốc gia phát triển, vì nó mang lại lợi ích rất lớn cho những người thực hiện. Tuy nhiên, do hệ thống giám sát của những nước này rất chặt chẽ và có sự phối hợp của nhiều cơ quan tham gia, với chế tài xử phạt đầy đủ, rõ ràng nên ở đó, các hành vi giao dịch nội gián được hạn chế khá tốt. Còn ở Việt Nam, khi mà công ty đại chúng còn sử dụng thông tin như là “món quà” cho một hoặc một nhóm nhỏ người đầu tư, thị trường không thể không có giao dịch nội gián, Hiệp hội Kinh doanh Chứng khoán Việt Nam phân tích. Không ít các hiện tượng trên thị trường chứng khoán giai đoạn vừa qua có thể minh chứng cho quan điểm này, như hành vi bán tháo PVF hồi tháng 9 năm 2013. Hay, một trường hợp khác cũng từng trở thành tâm điểm của thị trường đó là vụ thâu tóm Sacombank. Ở vụ việc này, một số nhà đầu tư đã âm thầm thu gom cổ phiếu STB của Sacombank để đạt đến tỷ lệ sở hữu lớn, nhưng không hề công bố thông tin. Cho đến khi HĐQT và ban điều hành mới của ngân hàng này đi vào hoạt động, UBCKNN mới vào cuộc và đưa ra quyết định xử phạt những nhà đầu tư vi phạm.

Trong năm 2014, UBCKNN tiếp tục đẩy mạnh công tác thanh tra, xử lý vi phạm trên TTCK. Theo đó, số vụ vi phạm bị UBCK xử phạt tăng cả về quy mô và số lượng. Thống kê cho thấy, trong năm 2014, UBCK đã ra tổng cộng 124 quyết định xử phạt xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK đối với 32 cá nhân và 192 tổ chức. Tổng số tiền phạt trên 10,4 tỷ đồng. Một số vụ xử phạt lớn có thể kể đến như: Vụ xử phạt đối với ông Nguyễn Khắc Ngọc, người đã có hành vi thao túng, làm giá chứng khoán, với tổng số tiền phạt lên tới gần 606 triệu đồng. Cụ thể, trong thời gian từ ngày 2/5/2013 đến ngày 6/9/2013, ông Ngọc đã liên tục thực hiện các giao dịch mua, bán cổ phiếu HHS, với mục đích tạo thanh khoản giả tạo, thao túng giá cổ phiếu HHS, vi phạm quy định tại khoản 4, Điều 9, Luật Chứng khoán; Về phía các tổ chức, CTCK bị phạt nặng nhất là CTCK Đệ Nhất (FSC) với số tiền phạt là 550 triệu đồng. Cụ thể, FSC bị phạt 175 triệu đồng do trực tiếp nhận và chi trả tiền giao dịch chứng khoán của khách hàng; bị phạt 125 triệu đồng do cho khách hàng mua chứng khoán khi không có đủ tiền theo quy định; bị phạt 250 triệu đồng do cung cấp dịch vụ chứng khoán, dịch vụ tài chính khi chưa có quy định hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; Ngày 18/7/2014, CTCK VNDirect (VNDS) nhận án phạt lên tới 215 triệu đồng, bao gồm 60 triệu đồng do bố trí người chưa có chứng chỉ hành nghề chứng khoán; 85 triệu đồng do không giám sát, ngăn ngừa xung đột lợi ích trong nội bộ Công ty và 70 triệu đồng do thực hiện đầu tư không đúng quy định pháp luật. Ngoài ra, ông Nguyễn Sỹ Bình, nhân viên môi giới của VNDS cũng bị phạt số tiền là 85 triệu đồng, do cho mượn chứng khoán trên tài khoản của khách hàng; Đối với khối công ty quản lý quỹ, CTCP Quản lý quỹ Bông Sen (LotusIMC) là tổ chức chịu mức phạt cao nhất là 380 triệu đồng, bao gồm 175 triệu đồng do giao vốn của Công ty cho tổ chức khác trái quy định pháp luật; 85 triệu đồng do không đảm bảo cơ cấu nhân sự tại bộ phận kiểm soát nội bộ theo quy định; 60 triệu đồng do không tuân thủ quy định của Luật Chứng khoán, Luật Doanh ngiệp và các quy định khác về quản trị công ty và 60 triệu đồng do báo cáo không đầy đủ về danh mục đầu tư của NĐT ủy thác, về các lần sửa đổi, bổ sung Điều lệ Công ty; CTCP Quản lý quỹ Đối tác Toàn Cầu (GPA) cũng bị phạt nặng trong năm 2014, với tổng cộng 227,5 triệu đồng cho các hành vi vi phạm: không thiết lập bộ phận kiểm soát nội bộ theo quy định (70 triệu đồng), công bố thông tin không đúng thời hạn, không đầy đủ nội dung theo quy định (60 triệu đồng); báo cáo không đầy đủ khi tỷ lệ vốn khả dụng dưới mức 180% (50 triệu đồng); không bố trí đủ người hành nghề chứng khoán cho từng nghiệp vụ kinh doanh theo quy định (40 triệu đồng); và không tuân thủ các quy định về quản trị công ty theo quy định của pháp luật (7,5 triệu đồng); Về phía các công ty niêm yết, doanh nghiệp chịu mức phạt cao nhất năm 2014 là CTCP Dược Cửu Long (DCL) với mức phạt là 100 triệu đồng do không công bố thông tin theo quy định pháp luật; Cũng trong khối doanh nghiệpniêm yết, CTCP Xuất nhập khẩu thủy sản Bến Tre (ABT) phải chịu mức phạt 85 triệu đồng do vi phạm quy định về công bố thông tin giao dịch cổ phiếu;…

Trên thị trường chứng khoán Việt Nam, các nhà đầu tư thường nói với nhau rằng: tin đồn là tin… chính xác nhất. Quả thực điều này đã xảy ra nhiều lần, do đó càng khiến cho người ta tin tưởng vào tin đồn và hình thành một chiến lược đầu tư gọi là đầu tư theo tin. Từ khi thị trường chứng khoán ra đời đến nay, hiện tượng cổ đông nội bộ, cổ đông lớn, đội lái dùng thông tin nội gián và thao túng giá chứng khoán đã không ít lần làm cho thị trường chao đảo. Nguyên Chủ tịch UBCKNN Vũ Bằng từng thừa nhận việc điều tra, xử phạt hành vi vi phạm này rất khó. Mức phạt thấp, khung pháp lý chưa đầy đủ và nhất là giơ cao đánh khẽ đã khiến những vụ thao túng, giao dịch nội gián vẫn có đất sống. Cũng phải thừa nhận rằng, càng ngày cơ quan quản lý càng phát hiện ra nhiều vụ thao túng giá và áp những mức phạt hành chính cao nhất dù kết luận “không có khoản thu trái pháp luật từ hành vi vi phạm”. Nhưng thực tế là có những người đã sử dụng thông tin nội gián để kiếm tiền tỷ. Chính vì vậy, chiến lược đầu tư theo tin không thể nói là không hiệu quả.

George Soros từng được mệnh danh là “Người phá sập ngân hàng Anh” khi ông giành được chiến thắng trong vụ đầu tư trị giá 10 tỷ đôla vào đồng bảng Anh. Thật ra không phải chỉ có mình ông biết điều đó, và ông cũng không phải là người duy nhất thu lãi lớn trong vụ đầu tư này. Bất cứ nhà đầu tư nào biết xem xét và phân tích vấn đề đều sẽ nhận ra những dấu hiệu chứng tỏ đồng bảng Anh sắp mất giá. Hàng trăm, nếu không muốn nói là hàng ngàn doanh nhân khác cũng có thể kiếm được món tiền lớn như thế khi đồng bảng Anh thật sự mất giá so với đồng đôla. Thế nhưng chỉ có Soros biết nắm bắt cơ hội này và biến cơ hội đó thành 2 tỷ đôla lợi nhuận. Dựa vào danh tiếng và uy tín sẵn có mà hiện nay cả Buffet và Soros đều dễ dàng tiếp cận với những người có địa vị cao trong giới tài chính, kinh doanh và cả các nhân vật quan trọng trong xã hội. Và người ta cho rằng nhờ vậy, họ có nhiều thông tin nội gián để kiếm những món tiền khổng lồ từ đầu cơ. Tuy vậy, khi mới bước chân vào lĩnh vực đầu tư, họ chỉ là những người bình thường và không nhận được sự bất kỳ sự đón tiếp đặc biệt nào. Và thậm chí các khoản lãi từ cái thuở “hàn vi” đó còn nhiều hơn khi họ đã nổi tiếng. Vì thế, việc trông chờ vào nguồn thông tin nội gián dưới bất cứ hình thức nào đều không giúp ích gì nhiều cho các nhà đầu tư.

Nói về hệ quả của giao dịch nội gián, nó có thể gây nên những biến động giá và khối lượng giao dịch bất thường trên TTCK, gây thiệt hại nặng nề cho những NĐT biết thông tin sau; làm giảm lòng tin của NĐT khi tham gia thị trường. Nhìn tổng thể, nếu còn để hành vi này diễn ra phổ biến, giao dịch nội gián sẽ ảnh hưởng đến việc huy động vốn của DN, đến quá trình phát triển của TTCK và tốc độ tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, công ty niêm yết là người cung cấp chứng khoán và thông tin cho thị trường phải chịu trách nhiệm trước hết về các giao dịch nội gián. Song, điều đáng nói là một số quy định hiện nay liên quan đến công bố thông tin lại đang thực hiện ngược với thông lệ quốc tế. Cụ thể, về nguyên lý, công ty niêm yết không chịu trách nhiệm về giá chứng khoán trên thị trường, vì nó bị tác động rất lớn bởi yếu tố tâm lý, cũng như tình hình kinh tế, chính trị, xã hội. UBCKNN bắt công ty niêm yết phải giải trình lý do giá chứng khoán tăng hoặc giảm liên tục 5 – 10 phiên là điều phi lý. Lẽ ra, đó phải là câu hỏi mà tổ chức niêm yết dành cho SGDCK, UBCKNN. Bởi các cơ quan này là người trung gian quản lý, giám sát để thông tin hai chiều tốt nhất. Và để đạt được yêu cầu trên, các cơ quan quản lý sẽ phải siết chặt hơn nữa việc công khai, minh bạch thông tin hoạt động của doanh nghiệp, cổ đông lớn… với công chúng. Bởi về bản chất, công ty đại chúng, sử dụng vốn của công chúng đầu tư để kinh doanh. “Chỉ có làm như vậy, thị trường sẽ có thông tin thống nhất, đầy đủ, kịp thời và công bằng. Từ đó, NĐT cũng giám sát được việc thực hiện cơ chế thông tin của doanh nghiệp và hạn chế được thông tin nội gián”, đại diện Hiệp hội Kinh doanh Chứng khoán Việt Nam khuyến cáo.

Hạn chế của quy định pháp luật về giao dịch nội gián và đề xuất phương hướng giải quyết

Giao dịch nội gián là căn bệnh kinh niên của thị trường tài chính khi có sự bất cân xứng thông tin giữa những người điều hành doanh nghiệp (CEO) và nhà đầu tư bên ngoài. Để minh bạch hóa thông tin và hạn chế giao dịch nội gián, cần có chế tài liên quan đến việc giao dịch của các CEO. Đây là khoảng trống pháp lý rất lớn mà thị trường chứng khoán Việt Nam đang gặp phải. Trên TTCK, không cấm các CEO giao dịch cổ phiếu công ty họ đang quản lý. Tuy nhiên, do là người hoạt động bên trong doanh nghiệp nên họ có nhiều thông tin nội bộ hơn so với NĐT bên ngoài. Điều này dẫn đến lợi thế của các CEO trong doanh nghiệp tốt hơn so với NĐT khác trên thị trường. Vì thế, hoạt động mua bán chứng khoán dựa trên các thông tin nội bộ chưa được thông tin rộng rãi cho công chúng, được coi là giao dịch nội gián và là một hành vi vi phạm pháp luật. Do vậy, từ năm 2000, để giải quyết xung đột pháp lý có khả năng nảy sinh dành cho các CEO, Ủy ban Giao dịch chứng khoán Hoa Kỳ (SEC) đã ban hành quy định 10b5-1.

Phân tích quy định nhằm hạn chế tình trạng giao dịch nội gián
Phân tích quy định nhằm hạn chế tình trạng giao dịch nội gián

Thúc đẩy điều tra nghiên cứu và xử lý giao dịch nội gián đang là vấn đề cấp thiết để lấy lại niềm tin của NĐT đối với TTCK Việt Nam. Khi “trò chơi thoái vốn” đang diễn ra, cũng là lúc các nhà luật pháp Việt Nam cần phải gia tăng tính minh bạch của thị trường. Quy định 10b5-1 đặt ra tình huống những người nội bộ trong công ty tạo ra kế hoạch giao dịch trong tương lai với 1 ngày giao dịch và mức giá cụ thể để tiến hành mua hoặc bán, cũng như các lý do mua bán cổ phiếu, gọi là kế hoạch giao dịch 10b5-1. Đây là quy định nhằm giúp các CEO bảo vệ mình tránh khỏi các điều tra pháp lý liên quan đến giao dịch nội gián, và được xem là quy định quản trị quan trọng các công ty phải nộp về cho SEC. Từ đó sẽ làm minh bạch hóa thông tin trên thị trường và có lợi cho cả người giao dịch nội bộ lẫn NĐT bên ngoài. Theo đó, nếu CEO bán hoặc mua cổ phiếu không có trong bản kế hoạch giao dịch 10b5-1, đồng thời sau đó có các thông tin liên quan giúp CEO hưởng lợi, sẽ có thể bị điều tra giao dịch nội gián. Đối với NĐT, kế hoạch giao dịch 10b5-1 giúp họ biết được mức giá mục tiêu các CEO của doanh nghiệp muốn bán và khi nào bán. Thông tin này rất quan trọng đối với NĐT vì các mức giá này có thể là điểm hỗ trợ hoặc kháng cự quan trọng của giá chứng khoán. Bởi lẽ, giao dịch của các nhà giao dịch nội bộ là thước đo quan trọng về triển vọng tương lai của công ty hoặc giá cổ phiếu. Đơn giản không ai hiểu doanh nghiệp hơn các nhà lãnh đạo và do đó khi các CEO bán đi cổ phiếu có thể hàm chứa dự báo không tốt về triển vọng doanh nghiệp hoặc giá cổ phiếu. Ngược lại, nếu các CEO mua vào cổ phiếu cho thấy khả năng xuất hiện triển vọng tốt cho công ty hoặc xu hướng đi lên của giá cổ phiếu.

Dù TTCK Việt Nam đã hoạt động hơn 15 năm, nhưng các vấn đề xử lý giao dịch nội gián vẫn còn yếu. Chính vì vậy NĐT luôn cảm thấy bức xúc trước những giao dịch rất đáng ngờ của các CEO công ty. Rất nhiều trường hợp cho thấy các CEO công ty đã bán ra cổ phiếu đúng tại đỉnh của mô hình chữ V ngược. Ví dụ, giá cổ phiếu của CTCP Nông dược (HAI) có đỉnh tại vùng 50.000 – 58.000 đồng/cổ phiếu vào đầu tháng 10/2014 (nếu điều chỉnh sau khi phát hành thêm cổ phiếu tương ứng giá 23.000 đồng/cổ phiếu). Nhưng từ cuối tháng 8/2014, tức trong vòng 2 tháng, giá cổ phiếu của HAI đã tăng gần gấp 3 lần, tạo nên cơn sốt nóng, dù giá cổ phiếu HAI giao dịch gần như đi ngang trong suốt cả năm 2013 và đầu năm 2014.

Trên thực tế, quy định 10b5-1 không hoàn toàn hạn chế được vấn đề giao dịch nội gián, nhưng chí ít nó làm cho môi trường thông tin trở nên minh bạch hơn. Bởi các CEO có thể đã biết trước thông tin nội bộ sớm hơn các thành viên khác và tiến hành quy định 10b5-1 để không bị coi là giao dịch nội gián. Vì thế, luật 10b5-1 chỉ thực sự hữu ích khi một thông tin xấu hoặc tốt nhanh chóng được công khai cho cả NĐT bên ngoài biết. Trong thời gian này, các cổ đông nội bộ và cổ đông lớn của công ty đã ồ ạt bán ra cổ phiếu ngay tại vùng đỉnh hoặc lướt sóng với khoản lợi nhuận lớn.

Tại Việt Nam, Điều 26, 27, 28 của Thông tư 52/2012/TT-BTC hướng dẫn về việc công bố thông tin trên TTCK ban hành ngày 5/4/2012, quy định: Các cổ đông lớn, cổ đông sáng lập sở hữu 5% chứng chỉ quỹ hoặc cổ phiếu công ty niêm yết phải công bố thông tin về giao dịch cổ phiếu trong vòng 7 ngày, kể từ khi trở thành cổ đông lớn hoặc không còn là cổ đông lớn. Trong khi đó, các cổ đông nội bộ (bao gồm thành viên HĐQT, ban kiểm soát, tổng giám đốc/giám đốc, phó giám đốc, giám đốc tài chính, kế toán trưởng) phải báo cáo dự kiến giao dịch của mình chậm nhất 3 ngày làm việc trước khi thực hiện. Sau đó phải báo cáo kết quả giao dịch chậm nhất 3 ngày làm việc từ ngày hoàn tất giao dịch. Tuy nhiên, vấn đề là việc công bố thông tin trong vòng 3-7 ngày làm việc (thường trùng với ngày giao dịch) sẽ rất khó để phân biệt ban lãnh đạo công ty có tiến hành mua bán cổ phiếu dựa trên thông tin nội bộ hay không. Nếu có một quy định tương tự như 10b5-1 ở Hoa Kỳ sẽ giúp NĐT bên ngoài cũng như cơ quan quản lý kiểm soát dễ dàng hơn việc giao dịch nội gián.

Rõ ràng, đã đến lúc các nhà luật pháp Việt Nam cần siết chặt quy định công bố thông tin đối với các CEO trong việc giao dịch cổ phiếu của chính doanh nghiệp họ đang quản lý. Theo đó, nếu như có một quy định tương tự luật 10b5-1 ở Hoa Kỳ, có thể nó sẽ giúp các NĐT hiểu rõ hơn động thái của các CEO; đồng thời giúp các nhà quản lý chính sách có lý do để điều tra về các hành vi giao dịch nội gián. Ngoài yếu tố ảnh hưởng đến giá và không phổ biến, các quy định về thông tin nội bộ của chúng ta chưa bao gồm yếu tố phải là các thông tin chính xác, để tách biệt hành vi GDNG với các hành vi lũng đoạn thị trường khác. Ngoài ra, cũng không có quy định về loại trừ những thông tin không phải là thông tin nội bộ, ví dụ các thông tin từ nghiên cứu hay phân tích và có tính phổ cập thì không phải là thông tin nội bộ.

Liên quan đến vấn đề nội gián là ai (người nắm thông tin nội bộ), phạm vi được đề cập trong Luật Chứng khoán như nói ở trên còn chưa bao gồm các đối tượng có thể là người có thông tin nội bộ, hoặc quy định không cụ thể các đối tượng nội gián trực tiếp hay gián tiếp (nội gián sơ cấp và nội gián thứ cấp). Ví dụ, ở Hoa Kỳ, một luật sư giao dịch trên cơ sở biết được thông tin nội bộ của khách hàng; một bác sỹ biết được thông tin nội bộ từ bệnh nhân; một nhà báo giao dịch khi biết thông tin từ quá trình tác nghiệp, hay một người phụ trách in ấn một bản hồ sơ đấu giá cổ phần nắm được thông tin nội bộ và trục lợi… cũng bị quy về tội GDNG. Bởi vì những đối tượng này vi phạm nghĩa vụ mà họ phải thực hiện, tham gia các giao dịch mà họ bị cấm hay việc họ công bố hoặc lạm dụng thông tin nội bộ để trục lợi hoặc tạo điều kiện cho người khác trục lợi.

Chế tài trên TTCK Việt Nam hiện nay đối với GDNG chưa đa dạng và đủ mạnh để ngăn ngừa và chống loại tội phạm tài chính này. Ở các nước, khi bị quy là có tội GDNG thì đương sự phải chịu các trách nhiệm về dân sự, hành chính, hình sự và các hình thức phổ biến là tịch thu, phạt tiền, cấm kinh doanh, bồi thường thiệt hại, khởi tố và truy tố…

Quan hệ xã hội phát sinh từ hoạt động đầu tư chứng khoán là một quan hệ phù hợp với xu hướng và quy luật phát triển chung của “kỷ nguyên hội nhập” và nhu cầu khách quan của các quốc gia có nền kinh tế thị trường, nên cần được pháp luật ghi nhận và điều chỉnh. Điều chỉnh bằng pháp luật đối với các quan hệ phát sinh từ hoạt động ĐTCK là sự tác động của pháp luật lên các quan hệ này nhằm chi phối và định hướng chúng phát triển trong một trật tự nhất định, phù hợp với mục tiêu, nguyên tắc chung của thị trường chứng khoán cùng với sự phát triển khách quan của xã hội và ý chí của Nhà nước. Sự vận động không ngừng và phát triển của các quan hệ phát sinh từ ĐTCK cần phải được pháp luật kịp thời ghi nhận và điều chỉnh nhằm đảm bảo đúng định hướng xây dựng và phát triển TTCK tại Việt Nam là họat động hiệu quả, thông suốt, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các NĐT, lợi ích của Nhà nước và các chủ thể khác có lien quan. Có vậy, TTCK Việt Nam mới thật sự trở thành một kênh huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế và đóng vai trò quan trọng trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.


Trên đây là toàn bộ câu trả lời của chúng tôi về vấn đề: Phân tích các quy định pháp luật nhằm hạn chế tình trạng giao dịch nội gián . Nếu nội dung tư vấn còn chưa rõ, có nội dung gây hiểu nhầm hoặc có thắc mắc cần tư vấn cụ thể hơn, bạn có thể kết nối tới Tổng đài tư vấn luật trực tuyến qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy để được tư vấn trực tiếp.

Trân trọng./.

phone-call

GỌI HỎI ĐÁP MIỄN PHÍ

Scroll to Top