Đánh giá việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

Đánh giá việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản

      Hiện nay, xã hội phát triển về mọi mặt từ kinh tế, văn hóa, xã hội, công nghệ, y tế, …mang đến những thay đổi tích cực. Tuy nhiên, sự phát triển với tốc độ nhanh chóng như vậy cũng đem đến nhiều vấn đề tiêu cực, khó khắc phục. Trong đó, có vấn đề vô sinh trong sức khỏe sinh sản hiện nay. Thực tế cho thấy hiện nay tại Việt Nam tỉ lệ vô sinh chiếm khoảng 8% các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh sản. Như vậy ở nước ta có đến hàng triệu cặp vợ chồng có nhu cầu sinh con nhưng vẫn chưa thể thực hiện được mơ ước của mình. Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ra đời, đặc biệt là kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm, thực sự đã mang lại hạnh phúc lớn lao cho biết bao cặp vợ chồng. Theo đó, vấn đề sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đang ngày càng phổ biến và mang ý nghĩa vô cùng quan trọng, việc xác định cha, mẹ, con cũng có những nét đặc trưng riêng.Qua bài phân tích sau đây tổng đài tư vấn Luật Quang Huy chúng tôi xin giải quyết về vấn đề: “Đánh giá việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kĩ thuật hỗ trơ sinh sản theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014


Danh mục tài liệu tham khảo

  • Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007;
  • Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
  • Nghị định của Chính phủ số 10/ 2015/NĐ-CP về vấn đề sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;
  • Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006;
  •  Nguyễn Thị Lan, Xác định cha, mẹ, con theo Luật HNGĐ Việt Nam – Cơ sở lí luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2010;

Khái quát về vấn đề sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

      Theo Khoản 21, Điều 3, Luật Hôn Nhân và gia đình năm 2014: “Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm”.

      Có thể hiểu, đó là việc sử dụng các biện pháp kỹ thuật y học hiện đại để can thiệp vào quá trình thụ thai của người phụ nữ với mục đích giúp những cặp vợ chồng hiếm muộn, vô sinh hoặc phụ nữ độc thân có thể mang thai và có những đứa con như họ ước muốn. Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã thể hiện được sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kĩ thuật, đồng thời giải quyết được tình trạng hiếm muộn, vô sinh của phụ nữ và nam giới hiện nay do ảnh hưởng của nhiều yếu tố như môi trường, hóa chất, hậu quả chiến tranh, …và đem lại nhiều tác động tích cực cho xã hội nói chung và đem lại hạnh phúc, hi vọng cho nhiều gia đình nói riêng.

việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kĩ thuật hỗ trơ sinh sản theo luật hôn nhân và gia đình

Một số kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Thụ tinh nhân tạo

      Với sự phát triển của xã hội hiện nay, thụ tinh nhân tạo đang là một trong những vấn đề nóng bỏng về sức khỏe sinh sản nhận được sự quan tâm đặc biệt của xã hội. Có thể thấy, thụ tinh nhân tạo được biết đến là một phương pháp hỗ trợ sinh sản hiệu quả được áp dụng phổ biến trong điều trị vô sinh, hiếm muộn nhằm mang đến cơ hội làm cha, làm mẹ cho nhiều cặp vợ chồng. Phương pháp này sử dụng các kỹ thuật để tạo điều kiện cho quá trình thụ thai được diễn ra thuận lợi nhất tại các cơ sở y tế chuyên khoa.

      Dưới góc độ y học, thụ tinh nhân tạo được hiểu là thủ thuật bơm tinh trùng của chồng hoặc của người cho tinh trùng vào tử cung của người phụ nữ có nhu cầu sinh con để tạo phôi. Tham khảo ý kiến của các chuyên gia, thụ tinh nhân tạo hay còn gọi là bơm tinh trùng vào buồng tử cung là một trong những biện pháp hỗ trợ sinh sản hiệu quả cao hiện nay và trở thành lựa chọn của rất nhiều cặp vợ chồng vô sinh hiếm muộn

Thụ tinh trong ống nghiệm

      Theo khoản 1, Điều 2, Nghị định số 10/2015/NĐ-CP thì: “Thụ tinh trong ống nghiệm là sự kết hợp giữa noãn và tinh trùng trong ống nghiệm để tạo thành phôi”.  Hay có thể hiểu, đây là phương pháp thụ tinh theo đó trứng được thụ tinh bằng tinh trùng ở bên ngoài cơ thể và được thụ tinh trong ống nghiệm. Đây là phương pháp điều trị hiếm muộn được áp dụng sau khi đã sử dụng phương pháp kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thất bại do một số lý do sau: Tắc nghẽn ống dẫn trứng, lạc nội mạc tử cung, tinh trùng ít, yếu, dị dạng, trứng không đủ chất lượng, …Đây cũng là một trong những biện pháp được nhiều cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn, phụ nữ độc thân lựa chọn và mang lại hiệu quả tương đối cao. Hiện nay, với sự phát triển của công nghệ-kĩ thuật tiên tiến, tỷ lệ thành công của thụ tinh trong ống nghiệm đã được cải thiện và nâng cao so với trước đây.

Các trường hợp được áp dụng

      Hiện nay, pháp luật đã có những quy định cụ thể về việc áp dụng sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản sinh.

      Theo khoản 1, Điều 3, Nghị định số 10/2015/NĐ-CP thì: “Cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân có quyền sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa”. Như vậy, ta thấy pháp luật cho phép áp dụng biện pháp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản trong hai trường hợp sau đây:

Đối với cặp vợ chồng vô sinh

      Theo khoản 2, Điều 2, Nghị định số 10/2015/NĐ-CP thì: “Vô sinh là tình trạng vợ chồng sau một năm chung sống có quan hệ tình dục trung bình 2 – 3 lần/tuần, không sử dụng biện pháp tránh thai mà người vợ vẫn không có thai”. Các nguyên nhân dẫn đến vô sinh có thể xuất phát từ người đàn ông và cũng có thể xuất phát từ người phụ nữ. Vô sinh có thể là nguyên phát, nếu trong tiền sử họ chưa có thai lần nào hoặc là thứ phát nếu trong tiền sử họ đã có ít nhất một lần mang thai, sanh sẩy hoặc phá thai kế hoạch, rồi quá thời hạn một năm sau đó muốn có thai mà vẫn không có thai trở lại. Hiện nay tỉ lệ vô sinh trên thế giới trung bình từ 6%-12%, đây là một vấn đề lớn không chỉ riêng Việt Nam nói riêng mà còn là vấn đề lớn của cả thế giới nói chung. Đồng thời, nó còn là vấn đề cấp thiết cho ngành y tế và toàn xã hội. Để cải thiện vấn đề vô sinh, hiếm muộn Chính phủ Việt Nam đã đưa ra Nghị định số 10/ 2015/NĐ-CP về vấn đề sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Nghị định ra đời không chỉ mang lại niềm vui cho những người bị vô sinh, hiếm muộn mà còn là hành lang pháp lý quan trọng cho giới chuyên môn và cho những người muốn điều trị vô sinh.

Đối với phụ nữ độc thân

      Khoản 6, Điều 2, Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy định: “Phụ nữ độc thân là phụ nữ không có quan hệ hôn nhân hợp pháp theo quy định của pháp luật”. Tức là, tại thời điểm đó, người phụ nữ đang không có quan hệ hôn nhân với bất kỳ ai. Mặc dù không muốn bị ràng buộc bởi hôn nhân nhưng họ vẫn muốn có một đứa con để yêu thương, chăm sóc, đó cũng là một trong những lý do dẫn đến người phụ nữ lựa chọn phương pháp này. Cuộc sống công nghiệp hiện đại cùng nhịp sống hối hả không những cuốn hút phái nam mà cả phái nữ. Càng ngày càng có nhiều phụ nữ độc thân lựa chọn biện pháp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và thường nằm ở đối tượng phụ nữ thành đạt.

Người gửi tinh trùng vào ngân hàng tinh trùng.

      Theo quy định tại khoản 1 Điều 21 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngân hàng tinh trùng lưu giữ tinh trùng trong các trường hợp sau:

  • Người tình nguyện hiến tinh trùng: Tại Điều 4, Nghị định số 10/2015/NĐ-CP và khoản 1 Điều 6 Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006, có quy định về việc hiến tinh trùng. Mà theo đó “Nam từ đủ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ đủ mười tám tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền hiến, nhận tinh trùng, noãn, phôi trong thụ tinh nhân tạo theo quy định của pháp luật”. Với quy định này người hiến tinh trùng phải là cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi dân sự thì có quyền thể hiện ý chí trong việc hiến tinh trùng.
  • Tinh trùng của người chồng khi cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh:

      Việc gửi tinh trùng, gửi noãn, gửi phôi được thực hiện trong các trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 21 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP: Cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh.

      Về điều kiện kết hôn, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2014: “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên”. Theo quy định này, độ tuổi tối thiểu khi người chồng trong cặp vợ chồng lưu giữ tinh trùng phải trên 20 tuổi. Đây là độ tuổi theo quy định tại BLDS năm 2015 có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Vậy người chồng trong cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh có toàn quyền trong việc xác lập, thực hiện các giao dịch liên quan đến việc lưu giữ tinh trùng, xử lý tinh trùng khi họ không có nhu cầu lưu giữ.

Các nguyên tắc áp dụng

      Theo Điều 3, Nghị định số 10/2015/NĐ-CP qui định về nguyên tắc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản như sau:

      Thứ nhất, cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân có quyền sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa; cặp vợ chồng vô sinh có quyền nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.

      Thứ hai, vợ chồng nhờ mang thai hộ, người mang thai hộ, trẻ sinh ra nhờ mang thai hộ được bảo đảm an toàn về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và được pháp luật tôn trọng, bảo vệ.

      Thứ ba, việc thụ tinh trong ống nghiệm, cho và nhận noãn, cho và nhận tinh trùng, cho và nhận phôi, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện.

      Thứ tư, việc cho và nhận tinh trùng, cho và nhận phôi được thực hiện trên nguyên tắc vô danh giữa người cho và người nhận; tinh trùng, phôi của người cho phải được mã hóa để bảo đảm bí mật nhưng vẫn phải ghi rõ đặc điểm của người cho, đặc biệt là yếu tố chủng tộc.

      Thứ năm, việc thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm phải tuân theo quy trình kỹ thuật; quy định tiêu chuẩn sức khỏe của người được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm, mang thai và sinh con do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành.

      Nghị định số 10/ 2015/NĐ-CP về vấn đề sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ra đời thay thế Nghị định số 12/2003/NĐ-CP không chỉ ghi nhận cụ thể các nguyên tắc áp dụng và còn quy định chi tiết về vấn đề sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Ngoài ra còn ghi nhận thêm quyền mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và các quyền nghãi vụ liên quan đến vấn đề này. Đây chính là điểm tiến bộ quan trọng của pháp luật Việt Nam.

Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp người vợ trong cặp vợ chồng vô sinh và người phụ nữ độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.

Đối với cặp vợ chồng vô sinh

      Theo quy định tại Điều 93 Luật HN và GĐ năm 2014: “1. Trong trường hợp người vợ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì việc xác định cha, mẹ được áp dụng theo quy định tại Điều 88 của Luật này”. Đối chiếu với quy định tại Điều 88, Luật HN và GĐ năm 2014: “1. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng. Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân. Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng”.

      Thứ nhất, đối với cặp vợ, chồng vô sinh sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì căn cứ xác định cha, mẹ, con được xác định trên nguyên tắc suy đoán pháp lý (Điều 88, Luật HN và GĐ năm 2014) nhưng không hoàn toàn giống sinh con theo chu trình tự nhiên. Đó là căn cứ vào thời kỳ hôn nhân của cặp vợ chồng vô sinh. Đây không chỉ là căn cứ xác định cha, mẹ, con trong trường hợp con sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản mà còn là điều kiện bắt buộc để cặp vợ chồng được áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì Nghị định 05/2015/NĐ-CP đã quy định: “vô sinh là tình trạng vợ chồng sau một năm chung sống có quan hệ tình dục trung bình 2 – 3 lần/tuần, không sử dụng biện pháp tránh thai mà người vợ vẫn không có thai” (khoản 2, Điều 2) và chỉ khi cặp vợ, chồng đáp ứng điều kiện trên thì mới được áp dụng. Do đó, trường hợp con sinh ra trước ngày vợ, chồng đăng ký kết hôn và được vợ chồng thừa nhận là con chung sẽ không được áp dụng đối với trường hợp con sinh ra bằng hỗ trợ kỹ thuật sinh sản.

      Việc áp dụng quy định trên vẫn còn một số vướng mắc, cụ thể trong trường hợp đang tiến hành kỹ thuật hỗ trợ sinh sản mà người chồng chết, đứa trẻ sinh ra đã quá 300 ngày kể từ khi hôn nhân chấm dứt thì đứa trẻ có được xác định là con chung của vợ, chồng không hiện pháp luật chưa có quy định cụ thể. Theo nhóm em, nếu theo nguyên tắc tại Điều 88 thì đứa trẻ trong trường hợp này không phải con chung của vợ, chồng, tuy nhiên thực tế đứa trẻ đó mang huyết thống của người cha đã chết và được sinh ra hoàn toàn dựa trên sự mong muốn của người cha này, nếu xác định đứa trẻ sinh ra không phải con chung của cặp vợ chồng vô sinh thì sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của đứa trẻ, ví dụ như quyền thừa kế di sản của người cha. Ngoài ra, pháp luật hiện nay cũng chưa có quy định cụ thể về việc đang trong quá trình thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản mà người chồng bị tuyên bố mất tích thì người vợ có được tiếp tục thực hiện và nếu thực hiện thì xác định cha, mẹ, con như thế nào.

      Thứ hai, chỉ khi có sự tự nguyện của cặp vợ chồng vô sinh thì mới được áp dụng việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Trên tình thần tự nguyện, người vợ trong cặp vợ chồng vô sinh được xác là mẹ đứa trẻ trong mọi trường hợp kể cả người mẹ là người nhận tinh trùng, nhận noãn hay nhận phôi của người khác. Người chồng hợp pháp của người mẹ đó cũng chính là cha đứa trẻ, ngay cả trường hợp người chồng không phải là người cho tinh trùng.

      Đối với phụ nữ độc thân

      Theo quy định tại khoản 6 Điều 2 Nghị định số 10/2015 NĐ-CP: “Phụ nữ độc thân là người phụ nữ không có quan hệ hôn nhân hợp pháp theo quy định của pháp luật”. Căn cứ để xác định cha, mẹ, con trong trường hợp này chỉ dựa vào sự tự nguyện và sự kiện sinh đẻ của chính họ. Theo quy định tại khoản 2 Điều 93 Luật HN và GĐ năm 2014: “Trong trường hợp người phụ nữ sống độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì người phụ nữ đó là mẹ của con được sinh ra”. Theo đó, người phụ nữ độc thân đương nhiên là mẹ của đứa trẻ. Pháp luật hiện nay ngoài việc cho phép người phụ nữ độc thân được nhận tinh trùng từ người khác còn cho phép họ được nhận phôi trong trường hơp họ không có noãn hoặc noãn không bảo đảm chất lượng để thụ thai. Việc quy định cho người phụ nữ đơn thân được phép nhận phôi thể hiện được tính chất nhân đạo của pháp luật, bởi khi người phụ nữ độc thân khát khao được làm mẹ nhưng do không có noãn hay noãn không đảm bảo chất lượng để thụ thai, do đó dù có nhận tinh trùng của người khác thì họ cũng không thể thụ thai được nên lúc này họ có thể nhận phôi để được sinh con.

      Việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không làm phát sinh quan hệ cha, mẹ và con giữa người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi với người con được sinh ra: quy định này phù hợp với nguyên tắc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là: “việc cho và nhận tinh trùng, cho và nhận phôi được thực hiện trên nguyên tắc vô danh giữa người cho và người nhận” (Khoản 3, Nghị định số 10/2015/NĐ-CP). Lý do mà pháp luật quy định như vậy xuất phát từ việc chính cặp vợ chồng vô sinh và người phụ nữ độc thân là người đem lại sự sống cho đứa trẻ và họ cũng là người mong muốn có đứa trẻ chứ không phải là người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi. Quy định trên cũng nhằm tránh những tranh chấp về quan hệ cha, mẹ, con của các chủ thể liên quan, là cơ sở đảm bảo ổn định mối quan hệ cha, mẹ, con, giúp cặp vợ chồng, người phụ nữ độc thân yên tâm nuôi dạy đứa trẻ trong điều kiện tốt nhất.

      Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

      Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là điểm đổi mới tiến bộ của pháp luật hôn nhân và gia đình. Pháp luật cho phép cặp vợ chồng vô sinh có quyền nhờ mang thai hộ. Việc này đã mở ra cơ hội được làm cha mẹ thực sự cho nhiều cặp vợ chồng hiếm muộn. Theo quy định tại khoản 22 Điều 3 Luật HN và GĐ năm 2014 thì: Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là “việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con”. Theo quy định tại Điều 94, Luật HN và GĐ năm 2014: “Con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra”. Như vậy, việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không làm phát sinh mối quan hệ cha, mẹ, con giữa vợ chồng người được nhờ mang thai hộ và đứa trẻ sinh ra.

Xác định cha, mẹ trong trường hợp vợ chồng vô sinh sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng tinh trùng

Xác định cha, mẹ trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng của người chồng

      Việc xác định quan hệ cha, mẹ, con trong trường hợp này không khác gì so với xác định quan hệ cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con tự nhiên. Bản chất của việc xác định quan hệ cha, mẹ, con căn cứ vào huyết thống, con phải có chung huyết thống với cha, mẹ. Việc xác định một người là con hay không phải là con mình dựa trên việc chứng minh họ có cùng chung huyết thống với mình hay không. Pháp luật cho phép cha, mẹ có quyền xác định người nào đó là con mình cũng như có quyền xác định một người nào đó không phải là con mình thoa Điều 89, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

      Quy định tại khoản 1 Điều 88 Luật HN&GĐ năm 2014 cho phép suy đoán con do người vợ sinh ra hoặc mang thai trong thời kỳ hôn nhân sẽ có chung huyết thống với vợ chồng, do đó, sẽ là con chung của vợ chồng. Trong trường hợp cha mẹ không thừa nhận thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định.

      Xác định cha, mẹ trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng của người hiến.

      Đối với trường hợp cặp vợ chồng vô sinh sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản từ tinh trùng của người hiến. Con sinh ra có chung huyết thống với người vợ nhưng không có chung huyết thống với người chồng. Mẹ của đứa trẻ là người vợ, người có chung huyết thống với đứa trẻ cũng là người sinh ra đứa trẻ. Trong khi đó cha đứa trẻ xác định căn cứ vào thời kỳ hôn nhân. Cha của đứa trẻ là người chồng hợp pháp của mẹ đứa trẻ trong thời kỳ mang thai hoặc sinh con. Quy định tại khoản 1 Điều 88 Luật HN&GĐ năm 2014, con do người vợ sinh ra hoặc mang thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng.

      Thẩm quyển xác định

      Điều 101 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định về thẩm quyền xác định cha, mẹ, con:

      -Cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền xác định cha, mẹ, con theo quy định của pháp luật về hộ tịch trong trường hợp không có tranh chấp.

      – Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp hoặc người được yêu cầu xác định là cha, mẹ, con đã chết và trường hợp quy định tại Điều 92 của Luật này.

      Quyết định của Tòa án về xác định cha, mẹ, con phải được gửi cho cơ quan đăng ký hộ tịch để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch; các bên trong quan hệ xác định cha, mẹ, con; cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

      Đánh giá việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

      Hiện nay, vấn đề về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được quy định khá cụ thể, chi tiết trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và Nghị định số 10/2015/NĐ-CP, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thực hiện, áp dụng. Tuy nhiên, những quy định này vẫn còn những hạn chế, bất cập cần được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp:

      Thứ nhất, về vấn đề hạn chế ly hôn khi hai vợ chồng đang tiến hành áp dụng biện pháp hỗ trợ sinh sản

      Khoản 3 Điều 51 Luật HN và GĐ năm 2014 quy định: “Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi”, quy định này áp dụng cho trường hợp sinh con bình thường, còn trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì chưa có quy định cụ thể, dẫn đến sự lúng túng khi áp dụng, thiết nghĩ việc bổ sung là cần thiết. Bởi lẽ, sẽ ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người vợ và người con tương lai.

      Trong trường hợp, cặp vợ chồng vô sinh đã sử dụng biện pháp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản nhưng thất bại và nhờ mang thai hộ thì người chồng của người mang thai hộ, người chồng của người nhờ mang thai có bị hạn chế quyền yêu cầu ly hôn không? Đối với người chồng của người mang thai hộ thì nên quy định bị hạn chế quyền yêu cầu ly hôn. Vì khi người vợ của mình nhận mang thai hộ thì người chồng đã đồng ý, điều này cũng có thể hiểu là người chồng sẽ có các nghĩa vụ chăm sóc nhất định đối với người vợ của mình, cho dù không phải là con của hai vợ chồng, đồng nghĩa là người chồng sẽ có thể bị hạn chế quyền yêu cầu ly hôn. Còn với người chồng của người nhờ mang thai hộ thì chỉ nên hạn chế quyền yêu cầu ly hôn khi đứa trẻ được sinh ra và còn sống. Khi đó, sẽ thuộc trường hợp được được quy định trên “sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi”.

      Trường hợp người chồng muốn ly hôn khi phôi chưa được đưa vào tử cung của người vợ: Nếu quyết định ly hôn xuất phát từ ý chí của hai bên vợ chồng thì nên chăng có quyết định hủy bỏ yêu cầu áp dụng việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Còn trong trường hợp người chồng mất tích thì vẫn có thể tiếp tục thực hiện việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì đã có sự đồng ý trước đó của người chồng.

      Thứ hai, vấn đề xác định cha, mẹ, con khi sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

      Việc xác định cha mẹ con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản cũng xuất phát từ nguyên tắc chung đó là xác định cha, mẹ, con khi cha mẹ có hôn nhân hợp pháp (Điều 88, 93 Luật HN&GĐ năm 2014). Quy định này nhằm đảm bảo mọi quyền lợi cho cặp vợ chồng, người phụ nữ độc thân và đặc biệt là đứa trẻ. Đối với trường hợp người phụ nữ độc thân khi sinh con thì áp dụng tương tự như trường hợp xác định cha, mẹ, con khi cha mẹ không có hôn nhân hợp pháp, trong trường hợp này chỉ có quan hệ giữa mẹ và con.

      Ngoài ra, trong trường hợp xác định cha, mẹ, con cần quy định rõ sau khi đứa trẻ được sinh ra nếu người cha, mẹ không muốn thừa nhận con thì cũng không được yêu cầu xác định lại. Bởi vì họ là người yêu cầu thực hiện việc sinh con bằng biện pháp hỗ trợ sinh sản, quan hệ cha, mẹ và con là tất yếu, không thể phủ nhận. Điều này khác với trường hợp sinh con tự nhiên vì người chồng có quyền yêu cầu xác định lại quan hệ cha con khi không tin tưởng đứa con là con ruột của mình. Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc biệt nếu cặp vợ chồng, người phụ nữ độc thân nghi ngờ cơ sở y tế và có thể có sự nhầm lẫn trong quá trình thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì nên chăng cho phép họ được quyền yêu cầu xem xét lại.

      Pháp luật đã cho phép sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng của người chồng lưu giữ trước khi chết thì cũng nên cho phép xác lập quan hệ cha mẹ con dựa trên căn cứ huyết thống, con là người có chung huyết thống với cha mẹ mà không dựa trên căn cứ thời kỳ hôn nhân để bảo vệ quyền và lợi ích của bà mẹ và trẻ em.

    Vấn đề xác định cha, mẹ, con trong trường hợp vợ chồng ly hôn. Quy định tại khoản 4 Điều 21 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP trong trường hợp hai vợ chồng ly hôn người vợ sử dụng phôi để sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản làm phát sinh các quan hệ ngoài quan hệ hôn nhân gia đình thì thực hiện theo quy định của pháp luật hôn nhân gia đình và pháp luật dân sự. Với quy định như vậy thì “quan hệ ngoài hôn nhân và gia đình” được hiểu như thế nào? Thiết nghĩ, pháp luật cần phải quy định cụ thể, nếu không sẽ gây khó khăn trong việc áp dụng trong việc giải quyết các quan hệ đó, nếu phát sinh tranh chấp.

Đánh giá việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con
bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản

      Thứ ba, một số quy định khác

      Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2014, vợ chồng người nhờ mang thai hộ phải đang không có con chung. Điều kiện này dẫn đến cách hiểu rằng nếu vợ, chồng đã có con riêng nhưng đang không có con chung thì vẫn thuộc trường hợp được nhờ mang thai hộ. Trong khi đó, nếu vợ chồng không có con riêng mà có con chung nhưng con chung đã cho người khác nhận nuôi hoặc mắc những căn bệnh hiểm nghèo, như di chứng chất độc da cam, teo não, … thì cũng không thuộc diện được nhờ mang thai hộ.

      Luật cũng quy định vợ chồng không thể sinh con thì mới được quyền nhờ mang thai hộ. Vậy có những phụ nữ vì nhiều lý do khác nhau mà họ không kết hôn, hoặc họ đã ly hôn (có những trường hợp ly hôn vì lý do không có khả năng mang thai và sinh đẻ) rơi vào tình trạng không thể sinh con vì những lý do chính đáng giống như người vợ trong cặp vợ chồng đủ điều kiện nhờ mang thai hộ và họ muốn có con thì có được nhờ mang thai hộ không? Trong khi đó, Nghị định 10/2015/NĐ-CP quy định: Người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ bao gồm: anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha, anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì của họ; anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha với họ. Như vậy, theo quy định thì số lượng người có thể nhờ mang thai hộ là rất ít, chưa kể đến việc liệu học có đáp ứng đủ các điều kiện để nhờ mang thai hộ. Từ đó, các cặp vợ chồng hiếm muộn sẽ gặp khó khăn trong việc nhờ mang thai hộ do đối tượng nhờ mang thai hộ khá hẹp. Đó là chưa kể đến một số trường hợp đặc biệt, họ không có anh em, chị em thuộc đối tượng có thể nhờ thì họ sẽ mất cơ hội có con.

      Theo quy định tại Điều 14 Nghị định 10/2015/NĐ-CP, hồ sơ đề nghị thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, có bản xác nhận của UBND cấp xã hoặc người mang thai hộ, nhờ người mang thai hộ tự mình chứng mình về mối quan hệ thân thích cùng hàng trên cở sở các giấy tờ hộ tịch có liên quan và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính xác thực của các giấy tờ này. Tình trạng giấy tờ có thể làm giả, hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng khó chứng thực được vì nhiều lý do khác nhau. Nếu có bên vi phạm về nội dung này thì pháp luật hiện hành cũng chưa quy định biện pháp chế tài cụ thể nào. Điều đó, liệu rằng có thể tránh được những hiện tượng đẻ thuê được hợp pháp hóa dưới hình thức mang thai hộ không?

      Theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2014, người được nhờ mang thai hộ đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần là không dự tính đến trường hợp rủi ro trong qua trình mang thai hộ. Bởi thực tế cho thấy, không ít trường hợp người phụ nữ mang thai tự nhiên còn xảy ra những trường hợp sảy thai hoặc qua khám sàng lọc trước khi sinh phát hiện thai không thể giữ buộc phải bỏ. Do vậy, với quy định người mang thai hộ chỉ được mang thai hộ một lần, là chưa thật sự “nhân đạo” với họ. Trong quá trình mang thai hộ do gặp “sự cố” ngoài ý muốn hoặc từ kết quả khám sàng lọc, không giữ được thai nhi thì cơ hội được làm mẹ, là cha của cặp vợ chồng hiếm muộn “có cũng bằng không”. Bởi theo quy định, họ không thể nhờ người mang thai hộ tiếp lần thứ hai. Do vậy, chúng ta có nên bỏ đi quy định “chỉ được mang thai hộ một lần”.

      Sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản là vấn đề phức tạp, đặc biệt về mặt pháp lí, bởi nó làm thay đổi những quan niệm truyền thống về mặt huyết thống giữa cha mẹ và con. Nhưng phương pháp đã đáp ứng được nguyện vọng mong mỏi, tha thiết được làm cha, là mẹ của những cặp vợ chồng không may bị hiếm muộn hay vô sinh. Đồng thời, thể hiện giá trị nhân đạo cao đẹp và sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kĩ thuật. Hiện nay sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản được áp dụng ở rất nhiều nước trên thế giới và ở cả Việt Nam. Thực tế cho thấy việc sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản có rất nhiều ưu điểm, đáp ứng được nhu cầu thực tế của xã hội phát triển hiện nay, nhưng bên cạnh đó cũng có không ít những khó khăn. Vì vậy, cần có những văn bản pháp lý quy định và hướng dẫn rõ ràng, cụ thể về vấn đề này.


Trên đây là phần giải đáp thắc mắc của chúng tôi về vấn đề: Việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản theo luật hôn nhân và gia đình. Nếu trong quá trình giải quyết còn gì thắc mắc bạn có thể liên hệ chúng tôi qua tổng đài tư vấn pháp luật qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy để được giải đáp.

Trân trọng./.


 

phone-call

GỌI HỎI ĐÁP MIỄN PHÍ

Scroll to Top