Di chúc về nhà ở trong pháp luật Dân sự Việt Nam

Di chúc về nhà ở trong pháp luật Dân sự Việt Nam

Lý do lựa chọn đề tài 

Ra đời trong thời kỳ đổi mới của đất nước, với nhiệm vụ “bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá  nhân, tổ chức, lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, bảo đảm sự bình đẳng và an toàn pháp lý trong  quan hệ dân sự, góp phần tạo điều kiện đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, thúc  đẩy sự phát triển kinh tế xã hội”. Đến nay, Bộ luật dân sự đã phát huy tích cực vai trò của nó trong việc  quản lý đất nước. Tuy nhiên, với tình hình xã hội ngày càng phát triển, đời sống không ngừng được  nâng cao, nhu cầu về mọi mặt của con người ngày càng lớn, các mối quan hệ xã hội phát sinh ngày  càng đa dạng và phức tạp… thì những quy định của bộ luật không thể dự liệu hết các trường hợp xảy ra  trong thực tế, không thể đáp ứng hết các yêu cầu ngày càng cao của con người; có nhiều quy định  không cụ thể, dễ dẫn đến những cách hiểu khác nhau, gây khó khăn, mâu thuẫn trong quá trình áp  dụng. 

Riêng trong lĩnh vực về thừa kế, các tranh chấp về thừa kế có xu hướng ngày càng tăng với tính  chất ngày càng phức tạp. Sự áp dụng pháp luật không thống nhất giữa các cấp tòa án, sự hiểu biết pháp  luật còn hạn chế của các cá nhân là những yếu tố làm cho tranh chấp về thừa kế theo di chúc ngày một  tăng đồng thời làm cho các vụ kiện tranh chấp về thừa kế bị kéo dài, không dứt điểm. trên khía cạnh  khác, cũng do luật về thừa kế chưa quy định cụ thể cũng như chưa thể dự liệu hết các trường hợp có thể  xảy ra trên thực tế nên còn gây lúng túng cho việc áp dụng. Trong phạm vi bài tiểu luận này, tác giả đi  sâu phân tích, đánh giá “Di chúc về nhà ở trong pháp luật dân sự Việt Nam.” 

Tình hình nghiên cứu đề tài 

Di chúc và thừa kế là đề tài nhận được nhiều sự quan tâm của các học giả, nhà nghiên cứu. Có  một số công trình nghiên cứu như: 

Thừa kế của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay, NXB Tư pháp 2004, sách chuyên khảo  của PGS, TS Phùng Trung Tập; 

Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Việt Nam của Tiến sĩ Vũ Văn Mẫu; 

Một số suy nghĩ về thừa kế trong Luật Dân sự Việt Nam của Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện… Những công trình nghiên cứu trên chủ yếu tập trung những vấn đề khái quát về lĩnh vực thừa kế  và di chúc, chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu phân tích, đánh giá di chúc về nhà ở trong pháp  luật Việt Nam hiện nay. 

Mục đích nghiên cứu 

Tiểu luận tập trung làm rõ những nhận thức chung về di chúc nhà ở, những quy định của pháp  luật dân sự hiện hành liên quan đến vấn đề di chúc nhà ở, trên cơ sở đó đánh giá một số thực trạng và  đề xuất một số giải pháp cụ thể. 

Phương pháp nghiên cứu 

Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,  quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về sở hữu tư nhân, về thừa kế trong thời kỳ đổi mới, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi có sự khởi sắc về mọi mặt. Dựa trên phương pháp  luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác Lênin. Bên cạnh đó, bài tiểu luận còn  sử dụng các phương pháp khoa học chuyên ngành như: Phương pháp logic, phân tích, so sánh, tổng  hợp, lịch sử, nêu vấn đề… 

Kết cấu của Tiểu luận 

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Tiểu luận gồm 3 Chương: Chương 1. Nhận thức chung về di chúc về nhà ở 

Chương 2. Quy định của pháp luật dân sự về di chúc nhà ở 

Chương 3. Một số bất cập trong quy định của pháp luật dân sự về di chúc nhà ở và một số kiến  nghị

Nhận thức chung về nhà ở

Khái niệm di chúc 

Quan niệm dân gian thường khái quát cuộc đời con người phải trải qua giai đoạn “sinh, lão,  bệnh, tử”. Con người cho dù sinh ra trong hoàn cảnh nào, giàu sang hay nghèo đói, đến cuối cùng cũng không tránh khỏi cái chết, trong khi tài sản của họ vẫn để lại cho người còn sống. Chính bởi vậy, để  chuẩn bị trước cho cái chết của mình, cũng là để thực hiện các quyền đối với tài sản của mình trước khi  chết và tránh được việc tranh chấp về tài sản giữa những người thân của mình, nên nhiều người thực  hiện việc lập di chúc như một biện pháp hữu hiệu. 

Di chúc, căn cứ theo quy định của pháp luật dân sự, được hiểu là văn bản hoặc lời nói thể hiện ý  chí, nguyện vọng của một người trong việc định đoạt tài sản, chuyển dịch quyền sở hữu, quyền sử dụng  tài sản cho người khác sau khi chết. 

Trong đó, người có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản mình, theo quy định của BLDS năm  20152 được xác định là người đã thành niên, có tài sản để lại, minh mẫn, sáng suốt và hoàn toàn tự  nguyện khi lập di chúc. Còn người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi thì vẫn được quyền  lập di chúc như người đã thành niên nhưng phải được sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ hợp  pháp. Quy định về độ tuổi lập di chúc (từ đủ 15 tuổi trở lên) nhằm mục đích đảm bảo việc thực hiện  quyền của chủ sở hữu tài sản khi họ có đủ khả năng và điều kiện để tạo lập nên tài sản của chính  mình. 

Khi một người lập di chúc để định đoạt tài sản của mình thì di chúc chỉ có hiệu lực kể từ thời  điểm mở thừa kế tức là thời điểm người có tài sản chết, hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết theo quy  định. Đồng thời, theo quy định tại Điều 643 BLDS năm 2015 thì di chúc được được đưa ra làm căn cứ  phân chia tài sản sau khi một người chết đi được xác định là di chúc hợp pháp và là di chúc cuối cùng  mà họ lập ra trước khi chết. 

Đặc điểm di chúc 

Với định nghĩa trên, ta có thể thấy một số đặc điểm cơ bản của di chúc như: 

Thứ nhất, di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân mà không phải của bất cứ chủ thể nào khác:  Di chúc là hành vi pháp lý đơn phương của người lập di chúc qua việc lập di chúc, cá nhân đó làm xác  lập một giao dịch dân sự về thừa kế theo đó, họ sẽ định đoạt phần tài sản của mình cho những người  khác mà không cần biết những người đó có đồng ý nhận di sản của mình hay không. Ngoài ra, di chúc  chung của vợ chồng cũng vậy, cho dù nó là sự thể hiện ý chí chung của vợ chồng, nhưng nó vẫn chỉ là  thể hiện ý chí đơn phương trong giao dịch dân sự. 

  • 1 Điều 624 BLDS năm 2015 
  • 2 Điều 625 BLDS năm 2015

Thứ hai, mục đích của việc lập di chúc là nhằm chuyển tài sản là di sản của mình cho người  khác đã được xác định trong di chúc: Để được coi là một căn cứ để chuyển dịch tài sản của mình sau  khi chết cho những người còn sống thì di chúc không thể thiếu nội dung này. Với nội dung này thì di  chúc thật sự trở thành một phương tiện để người để lại di sản thừa kế, quyền sở hữu của mộ người đối  với thành quả lao động của mình mới được chuyển dịch từ đời này sang đời khác và đặc biệt ngay cả  khi họ chết thì quyền định đoạt đối với tài sản của mình vẫn được pháp luật bảo vệ. 

Thứ ba, di chúc là giao dịch dân sự chỉ có hiệu lực sau khi người để lại di chúc chết: Xuất phát  từ việc di chúc chỉ là ý chí đơn phương của người lập ra nó nên người lập di chúc luôn có quyền tự  mình thay đổi nội dung đã định đoạt trong di chúc hoặc có quyền hủy bỏ di chúc. Vì vậy, dù người lập  di chúc đã lập xong di chúc nhưng vẫn còn sống thì những người thừa kế theo di chúc vẫn không có bất  kì một quyền nào đối với tài sản của người lập di chúc, và họ cũng không chắc chắn có được hưởng di  sản đó hay không. Mặt khác, pháp luật cũng cho phép nếu sự định đoạt trong di chúc đã lập không còn  phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh hiện tại thì người lập di chúc vẫn có quyền sửa đổi, bổ sung hay hủy  bỏ di chúc. Vì vậy, để một di chúc phát sinh hiệu lực pháp luật thì đòi hỏi người lập di chúc đã chết. 

Di chúc về nhà ở 

Nhà ở là nơi cư trú của mỗi chúng ta. Từ xa xưa nhà ở được sử dụng với mục đích chính là để che nắng, che mưa cho con người. Hiện nay, theo sự phát triển của xã hội, nhà ở là nơi diễn ra mọi sinh  hoạt của cá nhân, hộ gia đình và còn là một loại hàng hóa, tài sản đặc biệt với nhiều đặc điểm riêng. 

Chế định thừa kế đã vô cùng quen thuộc đối với mỗi chúng ta, đặc biệt đối với việc thừa kế tài sản  là nhà ở. Như vậy, di chúc về nhà ở là văn bản hoặc lời nói thể hiện ý chí, nguyện vọng của một người  trong việc định đoạt tài sản là nhà ở, chuyển dịch quyền sở hữu, quyền sử dụng nhà ở cho người khác sau  khi chết. 

Căn cứ theo quy định của Luật nhà ở năm 2014 quy định về thừa kế nhà ở thuộc sở hữu chung  hợp nhất:3 

“Nhà ở thuộc sở hữu chung hợp nhất mà người thừa kế là một hoặc các chủ sở hữu nhà ở thuộc  sở hữu chung còn lại thì những người này được thừa kế nhà ở đó theo di chúc hoặc theo pháp luật;  trường hợp có người thừa kế không phải là chủ sở hữu nhà ở thuộc sở hữu chung hợp nhất thì người  thừa kế được thanh toán phần giá trị nhà ở mà họ được thừa kế, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận  khác”. 

Đồng thời, theo quy định về thừa kế nhà ở thuộc sở hữu chung theo phần:4 

“Nhà ở thuộc sở hữu chung theo phần thì phần nhà ở của người để lại thừa kế được chia cho  những người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật; nếu nhà ở được bán để chia giá trị thì những  

  • 3 Điều 142 Luật nhà ở năm 2014 
  • 4 Điều 143 Luật nhà ở năm 2014

người thừa kế được ưu tiên mua; nếu những người thừa kế không mua thì các chủ sở hữu nhà ở thuộc  sở hữu chung khác được quyền ưu tiên mua phần thừa kế nhà ở đó và thanh toán cho những người thừa kế giá trị nhà ở đã mua”.

Di chúc về nhà ở trong pháp luật Dân sự Việt Nam
Di chúc về nhà ở trong pháp luật Dân sự Việt Nam

Quy định của pháp luật dân sự về di chúc nhà ở

Hình thức của di chúc chia thừa kế nhà ở 

Di chúc gồm di chúc miệng và di chúc được lập bằng văn bản. 

Căn cứ theo quy định tại Điều 629 BLDS năm 2015 thì di chúc miệng chỉ được thừa nhận là hợp  pháp khi nó được lập trong trường hợp một người đang bị cái chết đe dọa về tính mạng, không có đủ  thời gian cũng như điều kiện để lập di chúc bằng văn bản. Ví dụ, lập di chúc miệng khi một người bị  bệnh ung thư đang hấp hối, và không đủ điều kiện sức khỏe, thời gian để viết di chúc bằng văn bản. 

Đồng thời, theo quy định tại Điều 630 BLDS năm 2015, một di chúc miệng được xác định là  hợp pháp, ngoài việc đáp ứng về thời điểm, hoàn cảnh lập di chúc nêu trên thì người lập di chúc phải  thể hiện ý chí cuối cùng đối với việc định đoạt tài sản của mình trước ít nhất là hai người làm chứng.  Trong đó, người làm chứng cho việc lập di chúc, theo quy định tại Điều 632 BLDS năm 2015, phải là  người đã thành niên, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật, và không thuộc  trường hợp có quyền, hay nghĩa vụ liên quan đến nội dung di chúc, và không phải là người được thừa  kế tài sản mà người lập di chúc để lại theo nội dung di chúc hoặc theo pháp luật. 

Trường hợp này, sau khi lắng nghe ý chí cuối cùng, lời trăn trối của người lập di chúc miệng thì  hai người làm chứng này phải ghi chép lại và cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Văn bản ghi lại nội dung di  chúc miệng của người lập di chúc thì phải được công chứng, hoặc chứng thực hợp pháp trong thời gian  05 ngày kể từ ngày người lập di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng để nhằm mục đích xác nhận chữ  ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng trong nội dung di chúc. 

Tuy nhiên, khác với việc lập di chúc bằng văn bản, di chúc miệng không có hiệu lực ngay lập  tức mà theo quy định, nếu một người vẫn còn sống, minh mẫn và sáng suốt sau 03 tháng kể từ thời  điểm người này lập di chúc miệng thì nội dung di chúc miệng đã được lập sẽ bị hủy bỏ, đương nhiên  hết hiệu lực. 

Theo quy định của BLDS 2015, di chúc bằng văn bản bao gồm các loại sau đây:5 ❖ Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng 

Khi một người quyết định lập di chúc bằng văn bản và không có người làm chứng thì di chúc  này phải có đầy đủ nội dung của một di chúc thông thường theo quy định tại Điều 631 BLDS năm 2015  được trích dẫn ở trên. Di chúc này, theo quy định tại Điều 633 BLDS năm 2015, phải do người lập di  chúc tự viết và tự ký chữ ký của mình vào nội dung di chúc. Trường hợp di chúc có nhiều trang, nhiều  tờ thì người lập di chúc phải ghi đầy đủ số thứ tự và đồng thời ký vào từng trang của di chúc. 

Đồng thời và di chúc không được viết tắt, cũng không được viết hay chú thích bằng ký hiệu.  Người lập di chúc, nếu có sửa chữa, tẩy xóa một nội dung nào của di chúc thì phải ký tên bên cạnh chỗ  

  • 5 Điều 628 BLDS năm 2015

tẩy xóa, sửa chữa đó để xác minh việc họ tự sửa chữa, tẩy xóa chứ không phải do người khác thực hiện,  đảm bảo tính hợp pháp của di chúc. 

❖ Di chúc bằng văn bản có người làm chứng 

Việc lựa chọn lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng, theo quy định tại Điều 634 BLDS năm 2015, được áp dụng trong trường hợp người lập di chúc tự mình viết di chúc và có yêu cầu người  làm chứng hoặc thuộc trường hợp người lập di chúc không tự mình viết di chúc, nhưng tự mình đánh  máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc. 

Đối với di chúc được lập trong trường hợp này, theo quy định của pháp luật thì di chúc phải có ít  nhất hai người làm chứng. Trong đó, người làm chứng cũng phải đáp ứng điều kiện được quy định tại  Điều 632 BLDS năm 2015 giống như người làm chứng trong trường hợp lập di chúc miệng. 

Đối với việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng thì để di chúc này là hợp pháp, ngoài  việc ghi rõ đầy đủ nội dung chủ yếu của một di chúc thông thường theo quy định tại Điều 631 BLDS năm 2015 trong di chúc, người lập di chúc còn phải ký tên hoặc điểm chỉ vào nội dung di chúc trước sự  chứng kiến của những người làm chứng. Những người làm chứng sau khi đã chứng kiến về việc ký tên  hay điểm chỉ của người lập di chúc thì phải xác nhận về chữ ký, hay điểm chỉ của người lập chúc vào  nội dung di chúc. Đồng thời, người làm chứng cũng phải ký tên dưới nội dung xác nhận về chữ ký,  điểm chỉ nêu trên để đảm bảo tính chất pháp lý. 

❖ Di chúc bằng văn bản có công chứng 

Ngoài việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng, bằng văn bản có người làm  chứng hay di chúc miệng thì người lập di chúc vẫn có quyền lập di chúc và yêu cầu công chứng di  chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản được công chứng có thể thực hiện qua việc người lập di chúc đến  Văn phòng công chứng, hoặc Tổ chức hành nghề công chứng để lập hoặc yêu cầu công chứng viên đến  tận chỗ ở của mình để lập di chúc. 

Việc lập di chúc có công chức được thực hiện theo đúng thủ tục như sau: 

Người lập di chúc sẽ phải tuyên bố nội dung, nguyện vọng của mình về việc định đoạt tài sản,  cũng như các nội dung khác của di chúc định lập trước mặt của công chứng viên. Công chứng viên sẽ  phải lắng nghe, ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc, chủ sở hữu tài sản đã đọc, tuyên bố. Sau  khi đọc, kiểm tra nội dung bản di chúc được công chứng viên ghi chép lại xem đã chính xác, đúng với  nguyện vọng, ý chí, mong muốn của mình hay chưa thì người lập di chúc sẽ phải trực tiếp ký hoặc điểm  chỉ vào bản di chúc này. Sau đó, công chứng viên sẽ trực tiếp ký vào bản di chúc và thực hiện việc  công chứng di chúc. 

Trong trường hợp đặc biệt, khi người lập di chúc có khuyết tật, khiếm khuyết một số chức năng  nhất định như không đọc được, hoặc không nghe được bản di chúc; hoặc không ký hay điểm chỉ được  vào nội dung di chúc thì để đảm bảo tính khách quan, đảm bảo quyền lợi của người lập di chúc, pháp  luật yêu cầu việc lập di chúc sẽ phải có sự tham gia của người làm chứng. Người làm chứng này sẽ phải xác nhận về nội dung di chúc, chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc, và ký xác nhận trước mặt công  chứng viên. Sau đó, công chứng viên sẽ sẽ công chứng di chúc trước mặt người lập di chúc và người  làm chứng này. 

❖ Di chúc bằng văn bản có chứng thực 

Đối với việc lập di chúc bằng văn bản được chứng thực thì người lập di chúc sẽ trực tiếp đến Ủy  ban nhân dân cấp xã nơi mình cư trú để thực hiện việc lập di chúc. Về trình tự, thủ tục lập di chúc có  chứng thực sẽ được thực hiện tương tự như trường hợp lập di chúc ở Văn phòng công chứng, tổ chức  hành nghề công chứng đã phân tích ở trên. 

Lưu ý: Ngoài việc đáp ứng các điều kiện về chủ thể lập di chúc (người lập di chúc), về nội dung  và hình thức di chúc thì để một di chúc hợp pháp, người lập di chúc cũng cần phải lưu ý một số trường  hợp đặc biệt sau: 

Trường hợp người lập di chúc là người chưa thành niên (từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi) thì họ chỉ  có thể lập di chúc bằng văn bản và phải có sự đồng ý của cha, mẹ, người giám hộ về việc lập di chúc. Họ  không được lập di chúc miệng. 

Trường hợp người lập di chúc không biết chữ, hoặc bị hạn chế về thể chất như bị khiếm thính,  khiếm thị, cụt tay,… thì di chúc thể hiện ý chí của họ sẽ do người làm chứng lập thành bằng văn bản và  phải được công chứng, chứng thực hợp lệ. 

Một số trường hợp đặc biệt di chúc được lập, mặc dù không được công chứng, chứng thực  nhưng sẽ có giá trị như di chúc được công chứng, chứng thực, cụ thể: 

Quân nhân tại ngũ lập di chúc nhưng không có đủ điều kiện để yêu cầu công chứng, chứng  thực mà có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội trở lên. 

Người đang đi trên tàu biển, máy bay lập di chúc có xác nhận của người chỉ huy tàu biển, máy  bay để hợp pháp hóa thủ tục. 

Công dân Việt Nam đang sinh sống, làm việc ở nước ngoài lập di chúc có chứng nhận của cơ  quan lãnh sự quán, đại sứ quán hoặc cơ quan ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài. Người bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp xử lý hành  chính tại cơ sở giáo dục (trại giáo dưỡng, trung tâm hòa nhập cộng đồng), cơ sở chữa bệnh (như trung  tâm cai nghiện…) lập di chúc có xác nhận của người phụ trách cơ sở này. 

Người làm công tác, thăm dò, nghiên cứu tại vùng núi, hải đảo lập di chúc có xác nhận của  người phụ trách đơn vị. 

Điều kiện để di chúc chia thừa kế nhà ở là hợp pháp 

Điều kiện để di chúc hợp pháp được quy định rõ tại khoản 1 Điều 630 BLDS 2015 với nội dung  cụ thể như sau: 

“1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

  1. Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng  ép;
  2. Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.”

Có thể thấy, như đã phân tích ở trên, theo quy định của pháp luật hiện hành, cụ thể Điều 625  BLDS năm 2015, người lập di chúc phải là người từ đủ 15 tuổi trở lên. Tuy nhiên, dù là người đã thành  niên hay là người chưa thành niên (từ đủ 15 tuổi trở lên) thì khi lập di chúc, họ đều phải đáp ứng điều kiện minh mẫn, sáng suốt và không bị lừa dối, hay cưỡng ép, đe dọa khi lập di chúc. 

Quy định về điều kiện này nhằm đảm bảo di chúc đã được lập có thể phản ánh chân thực nhất  nguyện vọng của người chủ sở hữu tài sản trong việc định đoạt tài sản trước khi chết. Nếu di chúc được  lập khi người lập di chúc không được minh mẫn, sáng suốt, tức là không đầy đủ năng lực hành vi để  thực hiện việc lập di chúc hay bị người khác ép buộc, gây ảnh hưởng thì nội dung di chúc đó sẽ không  thể hiện được nguyện vọng, mong muốn thực sự của người lập di chúc trong việc định đoạt tài sản của  chính họ trước khi chết. 

Ví dụ, ông A là chủ sở hữu của căn biệt thự sông Xanh. Vào những năm tháng cuối đời, do tình  hình sức khỏe yếu nên ông A muốn lập di chúc để định đoạt tài sản này cho những người con của mình.  Nhận rõ tình trạng sức khỏe của ông A, với tham vọng chiếm đoạt tất cả tài sản của ông A, anh B một  trong những người con của ông A lợi dụng tình trạng sức khỏe ngày càng suy yếu của ông A đã dùng  các thủ đoạn khác nhau như bỏ đói, ép buộc ông A phải ký vào di chúc để lại toàn bộ tài sản cho mình,  mà không cho những người con khác của ông A. Có thể thấy, trường hợp này, mặc dù di chúc của ông  A được lập, nhưng do bị anh B con của ông A ép ký vào di chúc, nên di chúc này không thể hiện  đúng nguyện vọng của ông A. Di chúc này được xác định là không hợp pháp khi không đáp ứng điều  kiện về chủ thể lập di chúc. 

Về nội dung di chúc, theo quy định tại Điều 630 BLDS năm 2015, một di chúc sẽ bao gồm  những nội dung cơ bản như: ngày, tháng năm lập di chúc; thông tin người lập di chúc; thông tin cá  nhân, cơ quan được hưởng di sản; thông tin về di sản và điều kiện hưởng di sản (nếu có) và các nội  dung khác. 

Hiện nay, theo quy định của pháp luật hiện hành, cụ thể căn cứ theo quy định tại Điều 630, 631  BLDS năm 2015, một di chúc được xác định là hợp pháp khi nội dung của di chúc không vi phạm điều  cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Trong đó: 

Điều cấm của luật, theo quy định tại Điều 123 BLDS năm 2015 được xác định là những quy  định của pháp luật quy định về những hành vi mà chủ thể không phép làm/thực hiện6. Còn đạo đức xã  hội, là những chuẩn mực, những quy định, những nội dung là chuẩn mực quy tắc ứng xử chung trong  đời sống, được tất cả mọi người trong xã hội, được cộng đồng mặc nhiên thừa nhận và tôn trọng. 

  • 6 Điều 123 BLDS 2015.

Một di chúc có nội dung vi phạm điều cấm của luật, tức là vi phạm pháp luật thì sẽ không hợp  pháp, không có hiệu lực trên thực tế. Còn một di chúc vi phạm đạo đức xã hội được xác định là di chúc  có nội dung đi ngược lại giá trị đạo đức của cả cộng đồng, xã hội, sẽ bị bài trừ và không có hiệu lực  trên thực tế. 

Ví dụ, ông A có một mảnh đất, và trước khi chết, mặc dù không có con nhưng ông A vẫn lập di  chúc để lại tài sản cho anh B. Tuy nhiên, trong nội dung di chúc đưa ra điều kiện, anh B sẽ được hưởng  toàn bộ tài sản này nếu như anh B giúp ông A giết chết ông N người mà ông A có thù oán, mâu thuẫn  lâu nay. Có thể thấy, nội dung bản di chúc của ông A không chỉ vi phạm điều cấm của luật, ở đây là  xâm phạm đến tính mạng của người khác, mà còn đi ngược lại tinh thần chính nghĩa của đạo đức xã  hội. Di chúc này được xác định là đương nhiên vô hiệu. 

Cũng cần lưu ý rằng: 

Di chúc chia thừa kế nhà ở bằng văn bản trong trường hợp không có công chứng, chứng thực  chỉ được coi là hợp pháp khi di chúc đó đáp ứng đủ các điều kiện như trên. 

Di chúc chia thừa kế nhà ở bằng miệng được coi là hợp pháp nếu các chủ thể là người lập di  chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi  người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. 

Trong thời hạn năm ngày làm việc theo quy định của pháp luật, kể từ ngày người di chúc miệng  thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng  thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng. 

Cách chia thừa kế theo di chúc chia thừa kế nhà ở 

Theo khoản 2 Điều 626 BLDS 2015, các chủ thể là người lập di chúc có quyền phân định phần  di sản nhà ở của mình cho từng người thừa kế. Hay nói một cách khác, người thừa kế được hưởng phần  nhà đất bao nhiêu phụ thuộc vào nội dung di chúc nếu di chúc đó hợp pháp7. 

Cũng cần lưu ý rằng dù di chúc hợp pháp nhưng nội dung của di chúc không thể hiện quyền  hưởng di sản thừa kế hoặc có để lại di sản nhưng ít hơn 2/3 suất thừa kế nếu chia theo pháp luật thì  phần được hưởng của mỗi người cần xác định lại. 

Chia thừa kế nhà ở theo pháp luật: 

Khi một người đã chết nhưng không có di chúc hoặc di chúc không hợp pháp hoặc còn phần nhà  ở của người đó chưa được chia theo di chúc thì sẽ chia theo pháp luật. 

Căn cứ vào khoản 1 Điều 650 BLDS 2015 thì nhà ở được chia theo pháp luật trong trường hợp  sau: 

Không có di chúc thì nhà ở được chia theo pháp luật. 

Di chúc không hợp pháp thì nhà ở được chia theo pháp luật. 

  • 7 Khoản 2 Điều 656 BLDS 2015.

Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc;  cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì nhà ở  được chia theo pháp luật. 

Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc  từ chối nhận di sản thì nhà ở được chia theo pháp luật. 

Ngoài ra, thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản là nhà ở như sau: Phần di sản không được định đoạt trong di chúc. 

Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật. 

Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền  hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan  đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa  kế. 

Người được hưởng thừa kế theo pháp luật: 

Theo Điều 649 và Điều 651 BLDS 2015 quy định: 

Các chủ thể là người được hưởng thừa kế theo pháp luật là người thuộc diện thừa kế và hàng  thừa kế. 

Diện thừa kế: 

Là người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng với người để lại di sản. Hàng thừa kế: 

Theo Khoản 1 Điều 651 BLDS năm 2015 quy định hàng thừa kế theo thứ tự được quy định cụ  thể như sau: 

“a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi  của người chết; 

  1. b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột  của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô  ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.”

Cũng cần lưu ý đối với những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn  ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ  chối nhận di sản theo quy định cụ thể tại khoản 3 Điều 651 BLDS 2015. 

Cách chia di sản thừa kế theo pháp luật 

Theo Khoản 2 Điều 651 BLDS 2015 quy định nội dung sau: 

“Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.”

Như vậy, theo quy định của pháp luật, nếu nhà đất được chia thừa kế theo pháp luật thì người  thừa kế sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau. 

Điều kiện thực hiện quyền thừa kế nhà ở 

Theo Khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013 quy định về điều kiện thực hiện quyền thừa kế  có nội dung cụ thể như sau: 

“1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê  lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi có các điều  kiện sau đây: 

  1. a) Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186 và trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật này; 
  2. b) Đất không có tranh chấp;
  3. c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;
  4. d) Trong thời hạn sử dụng đất.” 

Căn cứ vào quy định được nêu trên thì các chủ thể là người sử dụng đất được thực hiện các  quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng  đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi có các điều kiện được nêu cụ thể bên trên. 

Tuy nhiên chúng ta cũng cần hiểu đúng về quy định trên khi áp dụng trong trường hợp thực hiện  quyền thừa kế nhà ở để bảo đảm quyền của người thừa kế. 

Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Văn bản về thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và  tài sản gắn liền với đất được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật về dân sự.”8 Như vậy điều kiện có Giấy chứng nhận áp dụng đối với trường hợp người sử dụng đất thực hiện  để lại quyền thừa kế theo di chúc (khi lập di chúc thì người sử dụng đất thể hiện ý chí của mình trong  việc để lại di sản, trường hợp thừa kế theo pháp luật không thể hiện ý chí của người sử dụng đất). Ta nhận thấy, trong trường hợp lập di chúc bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực thì  người sử dụng đất phải có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong trường hợp lập di chúc có người  làm chứng hoặc không có người làm chứng thì người đang sử dụng đất vẫn được thể hiện ý chí của  mình là để lại quyền sử dụng đất dù không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tóm lại, điều kiện có Giấy chứng nhận áp dụng đối với trường hợp lập di chúc có công chứng và  lập di chúc có chứng thực. Còn đối với trường hợp khi lập di chúc có các chủ thể là người làm chứng  hoặc không có người làm chứng những người thừa kế theo pháp luật chứng minh nhà đất đó hợp pháp  thì vẫn có quyền chia thừa kế. 

  • 8 Điểm c khoản 3 Điều 167 Luật đất đai 2013.

Một số bất cập  trong quy định của pháp luật dân sự về di  chúc nhà ở và một số kiến nghị

Đánh giá chung 

Nhìn chung, pháp luật đã khẳng định vai trò điều tiết các quan hệ thừa kế một cách rõ ràng  nhưng không hoàn toàn làm mất đi quyền tự nhiên thuộc về mỗi cá nhân đó. Những quy định về độ  tuổi, khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của người lập di chúc được ghi nhận khá chi tiết trong  phần chung đối với giao dịch và phần riêng về di chúc. Việc ghi nhận này là cần thiết bởi vì: 

Về phía nhà nước: Nhằm đảm bảo tính khách quan khi đóng vai trò điều tiết các quan hệ xã  hội, việc quy định các vấn đề về người thừa kế mang lại sự ổn định, trật tự, xã hội hơn. Quy định về độ  tuổi, khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của người lập di chúc một cách rõ ràng để: (i) đảm bảo  quyền, lợi ích đặc biệt là lợi ích tinh thần cho chính họ trong việc thể hiện sự định đoạt tài sản của  mình; (ii) sự định đoạt là trung thực với ý chí của họ; (iii) đảm bảo tính đặc thù của loại giao dịch là di  chúc chỉ có hiệu lực khi người lập chết đi và sự phân chia di sản thừa kế theo di chúc ít gặp trở ngại  nhất… Nhà nước mong muốn loại bỏ nhiều tranh chấp không đáng có. Điều này tạo ra sự công bằng,  hợp lý đối với các chủ thể của quan hệ thừa kế. 

Về phía người lập di chúc, người thừa kế: Pháp luật khẳng định người lập di chúc phải là cá  nhân có tài sản để lại và ý chí trong di chúc phải là ý chí của chính cá nhân đó. Điều này được lý giải  rằng, cơ chế đại diện sẽ không tồn tại trong hoạt động lập di chúc và việc lập di chúc được kết luận  mang lại lợi ích tinh thần cho người xác lập ra nó. Do đó, độ tuổi trưởng thành, khả năng nhận thức và  thực hiện hành vi theo mong muốn của bản thân khẳng định sự chín chắn, thấu đáo trong suy nghĩ của  người lập di chúc. Qua đó, người lập di chúc cũng đạt được những lợi ích chính đáng về mặt tinh thần  khi thực hiện quyền lập di chúc để lại sự kế thừa tài sản của mình cho ai đó. Đồng thời, khi thực hiện  quyền lập di chúc theo quy định của pháp luật, người lập di chúc được đảm bảo về niềm tin rằng, nội  dung di chúc sẽ được thực hiện khi họ qua đời. Bên cạnh đó, nội dung của di chúc còn xác định quyền  hưởng hoặc nghĩa vụ phải thực hiện đối với người thừa kế. Đây cũng là cơ sở để ràng buộc quyền và  nghĩa vụ của chính những người thừa kế với nhau hoặc với các chủ thể khác. Cho nên, quy định về  năng lực của người lập di chúc càng khẳng định được vai trò khi thuyết phục các chủ thể liên quan tới  chính bản di chúc đó. 

Về phía xã hội: Quy định của pháp luật về người lập di chúc thực sự đảm bảo các yếu tố tình  và lý cho loại quan hệ di chúc mà một người trước khi chết mong muốn xác lập. Quy định này còn  mang tới sự ổn định, trật tự xã hội rõ ràng khi cá nhân chết đi. Điều này khẳng định rõ hơn vai trò của  Nhà nước khi điều chỉnh quan hệ thừa kế theo di chúc bằng pháp luật. 

Một số bất cập trong quy định của pháp luật về người lập di chúc nhà ở Thứ nhất, về năng lực chủ thể lập di chúc

Quy định của BLDS năm 2015 ghi nhận điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và di chúc có  phần khác nhau về năng lực chủ thể. Trong khi khoản 1 Điều 117 BLDS năm 2015 quy định một trong  các điều kiện có hiệu lực của giao dịch là: “Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi  dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập”. Theo quy định này, năng lực chủ thể xác lập giao  dịch bao gồm năng lực pháp luật và hành vi đều được đề cập với tư cách là điều kiện bắt buộc để xác  định hiệu lực của giao dịch, nhưng khoản 1 Điều 630 BLDS năm 2015 chỉ đề cập tới năng lực hành vi  và sự tự nguyện của người lập di chúc: “Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc;  không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép”. Sự thiếu sót tại Điều 630 BLDS năm 2015 khi quy định về điều  kiện để di chúc hợp pháp hoàn toàn có thể lý giải theo hướng, di chúc là một loại giao dịch nên khi  không quy định cụ thể sẽ được áp dụng quy định chung về giao dịch để xem xét. Tuy nhiên, vấn đề cần  đặt ra là cả quy định phần chung và phần cụ thể đều không ghi nhận hậu quả pháp lý cụ thể khi giao  dịch nói chung hoặc di chúc nói riêng vi phạm quy định về năng lực chủ thể xác lập. 

Khoản 2 Điều 218 BLDS năm 2015 quy định: “Việc định đoạt tài sản chung hợp nhất được thực  hiện theo thoả thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của pháp luật”. Như vậy, khi định  đoạt tài sản thuộc sở hữu chung thông qua các loại giao dịch có thể xảy ra hai trường hợp: Một là, người định đoạt chỉ được định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình. 

Hai là, việc định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung có thể dựa trên thoả thuận hoặc pháp luật quy định. Tức là, xác lập các giao dịch định đoạt tài sản chung vẫn được chấp nhận khi có sự đồng ý của  các đồng sở hữu. Điều này sẽ không có vấn đề gì bất cập nếu các chủ thể thực hiện đúng theo quy định. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành lại không ghi nhận hậu quả pháp lý để xử lý triệt để quy định về  các trường hợp sau: 

(i) Người xác lập giao dịch nói chung định đoạt tài chung hoặc cả tài sản của người khác không  dựa trên thoả thuận hoặc quy định của pháp luật. Giao dịch được xác lập sẽ vô hiệu toàn bộ hay một  phần?  

(ii) Người lập di chúc định đoạt tài sản chung hoặc của người khác, thậm chí định đoạt tài sản  thuộc sở hữu chung được sự đồng ý của các đồng sở hữu chủ. Về giao dịch thông thường, khi định đoạt  tài sản thuộc sở hữu chung mà có sự đồng ý của các đồng sở hữu thì vẫn được ghi nhận giá trị pháp lý,  nhưng đối với di chúc, hiện tại quy định này chưa được ghi nhận. Bởi vì, di chúc vẫn chỉ được định  nghĩa là ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Rõ ràng, đây là  những hạn chế cần phải được hoàn thiện để cá nhân xác lập giao dịch nói chung và lập di chúc nói  riêng. 

Thứ hai, quy định về sự đồng ý cho lập di chúc 

Về nội dung này, BLDS năm 2015 đã có những quy định thay đổi để đảm bảo tính phù hợp hơn  so với các BLDS trước đó. Thay vì chỉ cần sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ cho đối tượng từ  đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám như các văn bản quy phạm pháp luật trước, BLDS năm 2015 quy 

định “Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc”. 9Điều này khẳng định một cách rõ ràng hơn, là cha, mẹ  hoặc người giám hộ không được can thiệp vào nội dung di chúc của người từ đủ mười lăm đến chưa đủ  mười tám tuổi. Quy định này thể hiện được sự phù hợp khi xét về bản chất của di chúc. Vì nội dung của  di chúc phải là sự thể hiện ý chí của người thiết lập ra nó, cho nên quy định mới này là phù hợp. Tuy  nhiên, quy định về sự đồng ý cho lập di chúc của cha, mẹ hoặc người giám hộ đối với loại di chúc của  người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám là hợp lý nhưng vẫn chưa thuyết phục, vì: 

Một là, di chúc là một loại giao dịch trọng hình thức. Tức pháp luật đề cao phương tiện ghi nhận  sự thể hiện ra bên ngoài của ý chí hơn là những yếu tố mang tính ý niệm ở bên trong. Theo đó, việc lập  di chúc của nhóm cá nhân này cần thiết phải ghi nhận một cách rõ ràng hơn sự đồng ý của cha, mẹ hoặc  người giám hộ về việc lập di chúc bằng hình thức cụ thể mà qua đó, có thể chứng minh được sự tồn tại  của nó một cách đơn giản nhất. Vì di chúc có hiệu lực ở thời điểm người lập di chúc chết, nếu việc  đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ về việc lập di chúc không rõ ràng thì có thể dẫn tới “sự không  tồn tại bản di chúc” trong kết luận chứng minh. Điều này làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền của  người lập di chúc và đồng thời ảnh hưởng tới quyền, lợi ích của những người thừa kế được chỉ định  trong di chúc. Họ sẽ phải vất vả rất nhiều trong việc chứng minh sự tồn tại sự đồng ý của cha, mẹ hoặc  người giám hộ của người này. 

Hai là, việc xác định phạm vi chủ thể đồng ý cho lập di chúc chưa bao quát được các trường hợp  khác trong đời sống dân sự. Thực tế cho thấy, có trường hợp tại thời điểm người từ đủ 15 đến dưới 18  tuổi lập di chúc chỉ có cha hoặc mẹ đơn thân hay cha hoặc mẹ biết việc lập di chúc của con và chỉ có  một người đồng ý. Người còn lại có thể biết hoặc không biết về việc lập di chúc và chưa thể hiện sự  đồng ý, và khi có tranh chấp, họ hoàn toàn có thể thể hiện ý chí mình về việc chưa đồng ý. Rõ ràng, với  quy định hiện tại, người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi chỉ có thể lập di chúc khi người  này rơi vào một trong hai trạng thái: (i) phải có cả cha, mẹ và cả cha, mẹ phải đồng ý cho lập di chúc;  (ii) có người giám hộ. Sự ghi nhận này hoàn toàn chưa đảm bảo được yếu tố khách quan và toàn diện vì  nó có thể xâm phạm với quyền, lợi ích của một nhóm người trong xã hội. 

Thứ ba, về người lập di chúc dưới mười lăm tuổi 

Ngoài những độ tuổi về người lập di chúc được BLDS năm 2015 quy định rõ ràng, điều dễ nhận  thấy là người dưới mười lăm tuổi không được lập di chúc. Tuy nhiên, cách thể hiện của quy định này  chưa thật rõ vì BLDS năm 2015 chỉ đề cập tới hai chủ thể là người trên 18 tuổi và người từ đủ 15 đến  chưa đủ mười tám. Trong khi đó, những vấn đề liên quan đến các chủ thể có độ tuổi dưới mười lăm lại  được quy định rải rác ở các điều luật khác. Ví dụ: người dưới 6 tuổi, hoặc từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi  không được lập di chúc nhưng không được quy định cụ thể là suy luận từ khoản 2, khoản 3 Điều 21  BLDS năm 2015 hay trường hợp người bị hạn chế về mặt thể chất, họ không được xuất hiện trong Điều  

  • 9 Khoản 2 Điều 625 BLDS 2015.

625 BLDS năm 2015 nhưng lại xuất tại khoản 3 Điều 630 BLDS năm 2015 với địa vị pháp lý giống  chủ thể được quy định tại Điều 625 BLDS năm 2015.  

Thứ tư, cách đặt điều kiện minh mẫn, sáng suốt đối với người lập di chúc là chưa thực sự logic và khoa học 

BLDS năm 2015 dành cả Điều 625 để ghi nhận về cá nhân được lập di chúc. Nhưng quy định tại  khoản 1 điều này lại kết nối với Điều 630 để ràng buộc điều kiện cũng như khoanh vùng loại bỏ tư cách  chủ thể lập di chúc. Sự kết nối hay dẫn chiếu này không sai phạm về mặt lập pháp nhưng lại trở thành  thiếu sót khi kết hợp với quy định khoản 2. Với sự xuất hiện của hai khoản này, người đọc sẽ hiểu rằng  điều kiện về sự minh mẫn, sáng suốt chỉ cần đặt ra đối với người thành niên, còn người từ đủ mười lăm  đến chưa đủ mười tám tuổi vì có sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ nên sẽ không cần đến điều  kiện này nữa. 

Nhưng khi nghiên cứu Điều 630 một cách độc lập, chúng tôi nhận thấy, quy định tại khoản 1  Điều này là bắt buộc áp dụng đối với tất cả mọi chủ thể lập di chúc. Và như vậy, di chúc do người  thành niên hay người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi lập cũng phải thỏa mãn điều kiện về  người lập di chúc phải minh mẫn, sáng suốt. Cho nên, cách dẫn nhập tại khoản 1 Điều 625 tới Điều 630  là không cần thiết. Thậm chí, quy định liên quan tới người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi  tại khoản 2 Điều 625 gần như được nhắc lại y nguyên quy định tại khoản 2 Điều 630. Điều này cho  thấy sự không cần thiết trong cách thức viện dẫn về người có quyền lập di chúc và điều kiện về người  lập di chúc khi xác định tính hợp pháp của di chúc. 

Di chúc về nhà ở trong pháp luật Dân sự Việt Nam
Di chúc về nhà ở trong pháp luật Dân sự Việt Nam

Thứ năm, cách thức sử dụng từ ngữ thiếu tính thống nhất dẫn tới nhầm lẫn hoặc mâu thuẫn trong hoạt động thực hiện và áp dụng pháp luật 

Khoản 3 Điều 630 BLDS năm 2015 quy định: “Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc  của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng  thực”. Quy định này có một số vấn đề cần được làm rõ như sau: 

Một là, nếu ghi nhận những thuật ngữ này có hàm ý chỉ những cá nhân có trạng thái thể chất  khác nhau thì điểm khác nhau ở đây là gì? Hay đơn thuần, người có khó khăn trong nhận thức và làm  chủ hành vi là người bị Tòa án tuyên còn người có khiếm khuyết về mặt thể chất chưa bị Tòa án tuyên.  Cách hiểu này chưa đưa tới câu trả lời thỏa đáng cho quy định tại khoản 3 Điều 630 BLDS năm 2015.  Vì trong quy định về thừa kế theo di chúc, người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi  không được đề cập tới một cách cụ thể. Còn người khiếm khuyết về mặt thể chất lại được thực hiện  quyền lập di chúc. Quy định như vậy dễ dẫn tới sự hiểu lầm, người có khó khăn trong nhận thức và làm  chủ hành vi không được quyền lập di chúc. 

Hai là, nếu ghi nhận những thuật ngữ này đang có hàm ý chỉ những cá nhân có trạng thái thể  chất giống nhau lại càng không phù hợp khi không sử dụng chung một cụm từ để đảm bảo tính thống nhất. Cho nên, nếu đã bổ sung quy định về người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi thì  nên đồng nhất cách sử dụng ở từng điều luật, văn bản quy phạm pháp luật. 

Về nội dung này, việc kế thừa quy định cho người hạn chế về mặt thể chất, người không biết chữ  được quyền lập di chúc, đồng thời xác định người này khác người khó khăn trong nhận thức và làm chủ  hành vi ở chỗ chưa bị Tòa án tuyên thì nên ghi nhận thêm cả điều kiện để di chúc của người khó khăn  trong nhận thức và làm chủ hành vi hợp pháp. Có như vậy, quy định xét tính hợp pháp đối với người  lập di chúc ở trường hợp này mới đầy đủ và toàn diện. 

Hơn nữa, để đảm bảo quyền lập di chúc của mọi cá nhân, quy định về người hạn chế về mặt thể  chất nên định hướng rõ điều kiện để di chúc họ lập sẽ phát sinh hiệu lực. Theo đó, quy định tại khoản 3  Điều 630 BLDS năm 2015 cần sửa lại theo hướng: “Di chúc của người bị hạn chế về thể chất, của  người không biết chữ hoặc có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi do người được người này  chỉ định lập thành văn bản trước mặt ít nhất hai người làm chứng phải có công chứng hoặc chứng  thực”. 

Một số kiến nghị 

Trên cơ sở phân tích những bất cập trên, học viên mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị sau: Một là, quy định về người lập di chúc: 

Người lập di chúc 

  1. Người từ đủ mười tám tuổi trở lên không bị mất năng lực hành vi dân sự có quyền lập di chúc  để định đoạt tài sản của mình. 
  2. Người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc  người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc. 
  3. Người dưới mười lăm tuổi không được quyền lập di chúc. 

Hai là, quy định về tính hợp pháp đối với người lập di chúc: 

“Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; thực hiện quyền lập di chúc  trong phạm vi giới hạn luật định; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép”. 

Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập bằng văn bản  khi có sự đồng ý bằng văn bản về việc lập di chúc của cha và mẹ hoặc người giám hộ. Trường hợp  người lập di chúc chỉ có cha hoặc mẹ tại thời điểm lập di chúc thì chỉ cần có sự đồng ý bằng văn bản  của một người nhưng người còn lại phải rơi vào trạng thái không thể biết việc lập di chúc đó không do  lỗi của mình. 

Di chúc của người bị hạn chế về thể chất, của người không biết chữ hoặc có khó khăn trong  nhận thức và làm chủ hành vi do người được người này chỉ định lập thành văn bản trước mặt ít nhất hai  người làm chứng phải có công chứng hoặc chứng thực”.

Kết luận 

Trong bất kỳ chế độ xã hội có giai cấp nào, vấn đề di chúc và thừa kế luôn có vị trí quan trọng  trong các chế định pháp luật, là hình thức pháp lý chủ yếu để bảo vệ các quyền công dân. Di chúc về  nhà ở đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu đối với đời sống mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng và  xã hội. Với những quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện này, trong bài tiểu luận, học viên đã  phân tích những vấn đề lý luận chung cũng như quy định cụ thể về di chúc nhà ở. Trên cơ sở thực  tiễn, đánh giá một số bất cập trong quy định của pháp luật về di chúc nhà ở, từ đó, học viên cũng  mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị. 

Do hạn chế về thời gian nghiên cứu cũng như kiến thức bản thân còn chưa hoàn thiện, bài tiểu  luận còn mang ý kiến chủ quan và không tránh khỏi những sai sót, kính mong quý thầy, cô góp ý để  học viên hoàn thiện bản thân mình hơn.


Danh mục tài liệu tham khảo 

  1. Văn bản pháp luật 
  2. Bộ luật dân sự năm 2005 (Số 33/2005/QH11) ngày 14 tháng 06 năm 2005. 2. Bộ luật dân sự năm 2015 (Số 91/2015/QH13) ngày 24 tháng 11 năm 2015. 3. Luật đất đai năm 2013 (Số 45/2013/QH13) ngày 29 tháng 11 năm 2013. 4. Luật Nhà ở năm 2014 (Số 65/2014/QH13) ngày 25 tháng 11 năm 2014. B. Danh mục tài liệu tham khảo khác
  3. Phùng Trung Tập (2008), Luật thừa kế Việt Nam, Nxb Giáo dục.
  4. Nguyễn Minh Tuấn (2009), Pháp luật thừa kế của Việt Nam những vấn đề lý luận và thực  tiễn, nhà xuất bản Lao động xã hội.
  5. Lương Thị Hợp (2012), Một số vấn đề về thừa kế theo di chúc và thực tiễn giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc tại Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng, luận văn thạc sĩ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội. 
  6. Đào Thị Nhuận (2011), Người lập di chúc và quyền của người lập di chúc, khóa luận tốt nghiệp, trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội. 
  7. Phùng Trung Tập (2005), Tạp chí Tòa án, Tòa án nhân dân tối cao, số 03/2005 quy định về  người lập di chúc.

Trên đây là toàn bộ vấn đề giải đáp thắc mắc của mình về vấn đề: Hạn chế quyền ly hôn: Pháp luật và thực tiễn. Trong quá trình giải quyết nếu có vấn đề gì thắc mắc hoặc chưa rõ bạn có thể liên hệ tới Tổng đài tư vấn luật miễn phí của Luật Quang Huy qua HOTLINE 19006588 để được hỗ trợ chi tiết.

Trân trọng./.

phone-call

GỌI HỎI ĐÁP MIỄN PHÍ

Scroll to Top