So sánh cơ chế bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng và kiểu dáng công nghiệp

So sánh cơ chế bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng và kiểu dáng công nghiệp

Luật sở hữu trí tuệ ngày càng giữ vai trò quan trọng giữa nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế như hiện nay.

Bằng việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh do có việc sáng tạo ra và sử dụng các sản phẩm trí tuệ nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người và những sản phẩm trí tuệ được áp dụng vào sản xuất kinh doanh, lưu thông hàng hóa, lưu thông các sản phẩm trí tuệ trên thị trường nội địa và quốc tế, luật đã và đang tạo ra vành đai pháp lý vững chắc để tạo nên môi trường kinh doanh an toàn, lành mạnh.

Sáng chế cũng là một trong những đối tượng được Luật sở hữu trí tuệ bảo vệ. Pháp luật đề ra  Cơ chế bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng và kiểu dáng công nghiệp.

Việc tạo ra sáng chế không phải điều dễ dàng, yêu cầu về mặt nội dung của sáng chế cũng đòi hỏi một quá trình thẩm định chặt chẽ trước khi được cấp văn bằng bảo hộ nhưng hiện nay tình trạng xâm phạm quyền đối với sáng chế vẫn đang tiếp diễn ngày một nhiều hơn. Qua bài phân tích sau đây tổng đài tư vấn Luật Quang Huy chúng tôi xin giải quyết về vấn đề: So sánh cơ chế bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng và kiểu dáng công nghiệp.


Danh mục tài liệu tham khảo

  • Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009;
  • Nghị định 105/2006/NĐ – CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ;
  • Nghị định số 99/2013/NĐ – CP ngày 29/8/2013 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp;
  • Nghị định 22/2018/NĐ – CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật sở hữu trí tuệ năm 2005 và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật sở hữu trí tuệ năm 2009 về quyền tác giả, quyền liên quan;
  • Thông tư 11/2015/TT – BKHCN quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định 99/2013/NĐ – CP ngày 29/8/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp

Nội dung tình huống số 5

Câu 1. So sánh cơ chế bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng và kiểu dáng công nghiệp.

Câu 2. Công ty A (Nhật Bản) đã đăng ký và được cấp bằng độc quyền Sáng chế tại Nhật Bản và nhiều quốc gia khác trong đó có Việt Nam đối với “sáng chế điều hòa xuyên thấu không cánh quạt”. Điểm mấu chốt của sáng chế này là thiết bị “vòng bay hơi” giúp làm mát phòng một cách êm ái, ngăn khí nóng bay ngược vào trong phòng mà không tốn nhiều điện. Sáng chế đang trong thời hạn bảo hộ tại Việt Nam.

Công ty A phát hiện ra trên thị trường có bán sản phẩm điều hòa sử dụng thiết bị “vòng bay hơi” giống với sáng chế của họ do Công ty B (Hàn Quốc) sản xuất và Công ty TNHH Đức Hùng nhập khẩu và phân phối độc quyền ở Việt Nam. Hỏi:

a) Việc nhập khẩu và phân phối sản phẩm điều hòa sử dụng thiết bị “vòng bay hơi” của công ty TNHH Đức Hùng có xâm phạm quyền đối với sáng chế của công ty A (Nhật Bản) tại Việt Nam không? Vì sao?

b) Nếu có hành vi xâm phạm thì Công ty A có thể làm gì để bảo vệ quyền lợi của họ?

So sánh cơ chế bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng và kiểu dáng công nghiệp

Giống nhau

Đều là một trong những đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ được quy định tại Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam.

Đều là những quyền của chủ thể sáng tạo hoặc chủ thể sở hữu các sáng tạo đó.

Bảo hộ cho quyền và lợi ích của các chủ thể có quyền và tránh các hành vi xâm phạm đến chủ thể có quyền được bảo hộ.

Đều là đối tượng sáng tạo mang tính thẩm mỹ .

Đều thể hiện dưới dạng là hình dáng bên ngoài của tác phẩm (hình khối, đường nét, màu sắc…).

Phạm vi bảo hộ: đều được bảo hộ về quyền nhân thân và quyền tác giả.

Khác nhau

Thứ nhất, về sự khác nhau về khái niệm

Tác phẩm mỹ thuật ứng dụng là tác phẩm được thể hiện bởi đường nét, màu sắc, hình khối, bố cục với tính năng hữu ích, có thể gắn liền với một đồ vật hữu ích, được sản xuất thủ công hoặc công nghiệp như:

  • Thiết kế đồ họa (hình thức thể hiện của biểu trưng, hệ thống nhận diện và bao bì sản phẩm), thiết kế thời trang, tạo dáng sản phẩm, thiết kế nội thất, trang trí (khoản 2 Điều 13 Nghị định 22/2018/NĐ – CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật sở hữu trí tuệ năm 2005 và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật sở hữu trí tuệ năm 2009 về quyền tác giả, quyền liên quan).

Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được thể hiện bằng hình khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố này (khoản 13 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Thứ hai, về căn cứ xác lập quyền

Tác phẩm mỹ thuật ứng dụng: căn cứ vào khoản 1 Điều 6 Luật sở hữu trí tuệ có quy định: “Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký”

Theo đó, hình thức xác lập quyền của tác phẩm mỹ thuật ứng dụng là theo cơ chế bảo hộ tự động, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký. Từ thời điểm tạo ra tác phẩm, tác giả được bảo hộ về mặt pháp lý và có các quyền của người sáng tạo mà không phụ thuộc vào thể thức, thủ tục đăng ký nào.

Quyền tác giả được phát sinh mặc nhiên và nó được thiết lập từ thời điểm tác phẩm đó được thể hiện dưới hình thức khách quan mà người khác có thể nhận biết được. Việc đăng ký chỉ mang tính chất khuyến khích, chứ không bắt buộc, nếu đi đăng ký thì chi phí và thời gian (15 ngày) đăng ký không đáng kể.

Như vậy, việc đăng ký không phải là căn cứ làm phát sinh quyền tác giả mà chỉ có giá trị là chứng cứ chứng minh của đương sự khi có tranh chấp về quyền tác giả và một bên khởi kiện tại tòa án nhân dân hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết.

Kiểu dáng công nghiệp: căn cứ vào điểm a khoản 3 Điều 6 Luật sở hữu trí tuệ quy định là: “Quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp… được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên…”.

Theo quy định này, kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ thông qua thủ tục đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đây là thủ tục bắt buộc. Kiểu dáng công nghiệp chỉ được pháp luật bảo hộ khi đã được cơ quan nhà nước chính thức cấp văn bằng bảo hộ.

Đăng ký văn bằng bảo hộ là cách thức công khai, thông báo về tình trạng cua tài sản đã thuộc về chủ thể xác định để tránh tình trạng tài sản bị người khác chiếm đoạt mà không có căn cứ chứng minh để bảo vệ quyền của mình. Việc đăng ký này mất nhiều thời gian và chi phí hơn đăng ký bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng.

Thứ ba, về điều kiện bảo hộ

Tác phẩm mỹ thuật ứng dụng: chỉ cần tạo ra tác phẩm được thể hiện dưới dạng một hình thức vật chất nhất định và chỉ cần có tính nguyên gốc do tác giả sáng tạo ra mà không đòi hỏi có tính mới, không đòi hỏi bất kỳ về điều kiện nội dung, chất lượng và hiệu quả của tác phẩm.

Kiểu dáng công nghiệp: cao hơn, phải đáp ứng được các điều kiện quy định tại Điều 63 Luật sở hữu trí tuệ là: có tính mới (so với thế giới), có tính sáng tạo (không được trùng hoặc tương tự với kiểu dáng công nghiệp đã đăng ký) và có khả năng áp dụng công nghiệp.

So sánh cơ chế bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng và kiểu dáng công nghiệp
So sánh cơ chế bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng và kiểu dáng công nghiệp

Thứ tư, về thời hạn bảo hộ

Tác phẩm mỹ thuật ứng dụng: thời hạn bảo hộ được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 27 Luật sở hữu trí tuệ.

  • Đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng có thời hạn bảo hộ là 75 năm kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên.
  • Đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng chưa được công bố trong thời hạn 25 năm kể từ khi tác phẩm được định hình thì thời hạn bảo hộ là 100 năm kể từ tác phẩm được định hình.

Kiểu dáng công nghiệp: thời hạn bảo hộ được quy định tại khoản 4 Điều 93 Luật sở hữu trí tuệ như sau: “Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp có hiệu lực từ ngày cấp và kéo dài hết 5 năm kể từ ngày nộp đơn, có thể gia hạn liên tiếp, mỗi lần 5 năm”. Như vậy, thời hạn bảo hộ của kiểu dáng công nghiệp tối đa là 15 năm.

Thứ năm, về cách thức bảo hộ

Tác phẩm mỹ thuật ứng dụng: pháp luật chỉ bảo hộ hình thức chứa đựng tác phẩm khi nó được tạo ra và thể hiện dưới hình thức nhất định mà không bảo hộ nội dung, ý tưởng sáng tạo tác phẩm vì không một ai có thể biết được một vấn đề đang nằm trong suy nghĩ của người khác.

Những ý tưởng, kể cả cách sắp xếp đã có trong suy nghĩ của tác giả nhưng chưa được thể hiện ra bên ngoài bằng hình thức nhất định thì không có căn cứ để công nhận và bảo hộ những điều chưa được bộc lộ ra bên ngoài ấy.

Kiểu dáng công nghiệp: pháp luật bảo hộ độc quyền về mặt nội dung, ý tưởng sáng tạo chứ không bảo hộ về hình thức bên ngoài sản phẩm.

Thứ sáu, về ý nghĩa của việc bảo hộ

Tác phẩm mỹ thuật ứng dụng: do tác phẩm mỹ thuật ứng dụng chỉ bảo hộ về hình thức của tác phẩm để chống lại sự sao chép hoặc lấy và sử dụng hình thức trong tác phẩm gốc đã được thể hiện. Tuy nhiên, chủ sở hữu không thể ngăn cấm người khác tạo ra và sử dụng những thiết kế trùng hoặc tương tự nên cơ chế bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng yếu hơn kiểu dáng công nghiệp.

Kiểu dáng công nghiệp: do bảo hộ độc quyền về mặt nội dung, ý tưởng sáng tạo nên chủ sở hữu được độc quyền khai thác, sử dụng kiểu dáng công nghiệp và có quyền ngăn cấm người khác sử dụng kiểu dáng công nghiệp đó. Ta thấy, có chế bảo hộ của kiểu dáng công nghiệp mạnh hơn tác phẩm mỹ thuật ứng dụng.

Thứ bảy, cơ quan đăng ký bảo hộ

Tác phẩm mỹ thuật ứng dụng: Cục bản quyền tác giả.

Kiểu dáng công nghiệp: Cục Sở hữu trí tuệ.

Việc nhập khẩu và phân phối sản phẩm điều hòa sử dụng thiết bị “vòng bay hơi” của công ty TNHH Đức Hùng có xâm phạm quyền đối với sáng chế của công ty A (Nhật Bản) tại Việt Nam không? Vì sao?

Trả lời: Việc nhập khẩu và phân phối sản phẩm điều hòa sử dụng thiết bị “vòng bay hơi” của công ty TNHH Đức Hùng có thể xâm phạm quyền đối với sáng chế của công ty A (Nhật Bản) tại Việt Nam.

Để xem xét việc nhập khẩu và phân phối sản phẩm điều hòa của công ty Đức Hùng có xâm phạm quyền sáng chế điều hòa xuyên thấu không cánh quạt hay không thì ta cần xem xét ai là chủ sở hữu của sáng chế điều hòa xuyên thấu không cánh quạt đó?

Đề bài có đề cập: “công ty A đã đăng ký và được cấp được cấp bằng độc quyền Sáng chế tại Nhật Bản và nhiều quốc gia khác trong đó có Việt Nam đối với sáng chế điều hòa xuyên thấu không cánh quạt” theo đó chủ sở hữu sáng chế này chính là công ty A được cơ quan có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ đối với sáng chế.

Từ đây công ty A sẽ có các quyền của chủ sở hữu được quy định tại khoản 1 Điều 123 và khoản 1 Điều 124 Luật sở hữu trí tuệ là: quyền sử dụng, cho phép người khác sử dụng đối với đối tượng sở hữu công nghiệp, quyền ngăn cấm người khác sử dụng đối tượng công nghiệp và định đoạt đối tượng sở hữu công nghiệp.

Trong đó, sử dụng sáng chế bao gồm các hành vi sau: sản xuất sản phẩm được bảo hộ; áp dụng quy trình được bảo hộ; khai thác công dụng của sản phẩm được bảo hộ hoặc sản phẩm được sản xuất theo quy trình được bảo hộ; lưu thông, quảng cáo, chào hàng, tàng trữ để lưu thông sản phẩm quy định theo điểm c khoản này; nhập khẩu sản phẩm quy định tại điểm c khoản này.

Như vậy, theo quy định trên thì công ty A sẽ có độc quyền sử dụng sáng chế điều hòa xuyên thấu không cánh quạt trong đó có nhập khẩu sáng chế này.

Theo điểm b khoản 2 Điều 125 Luật sở hữu trí tuệ có quy định như sau:

“2. Chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp và tổ chức, cá nhân được trao quyền sử dụng hoặc quyền quản lý chỉ dẫn địa lý không có quyền cấm người khác thực hiện hành vi thuộc các trường hợp sau đây:…

b) Lưu thông, nhập khẩu, khai thác công dụng của sản phẩm được đưa ra thị trường, kể cả thị trường nước ngoài một cách hợp pháp, trừ sản phẩm không phải do chính chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc người được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu đưa ra thị trường nước ngoài….”

Vậy, công ty A không có quyền ngăn cấm công ty TNHH Đức Hùng thực hiện hành vi nhập khẩu sản phẩm điều hòa sử dụng thiết bị vòng bay hơi nếu hành vi nhập khẩu này là hành vi hợp pháp. Để xem hành vi nhập khẩu đó có hợp pháp hay không thì ta cần căn cứ vào nguồn gốc xuất xứ của điều hòa. Do đó ta có hai trường hợp cụ thể dưới đây:

Trường hợp 1: nếu điều hòa đó do chính công ty A sản xuất tại Hàn Quốc hoặc công ty A cho phép một công ty ở Hàn Quốc sản xuất, sử dụng sáng chế của họ thì hành vi nhập khẩu của công ty TNHH Đức Hùng là hành vi hợp pháp nên không xâm phạm quyền sở hữu sáng chế.

Đề bài có đề cập đến: “Công ty A (Nhật Bản) đã đăng ký và được cấp bằng độc quyền Sáng chế tại Nhật Bản và nhiều quốc gia khác trong đó có Việt Nam đối với sáng chế điều hòa xuyên thấu không cánh quạt”, theo đó công ty đã được cấp văn bằng bảo hộ sáng chế tại nhiều quốc gia khác nhau thì có thể trong đó có Hàn Quốc nên sản phẩm của công ty TNHH Đức Hùng nhập khẩu và phân phối độc quyền tại Việt Nam có thể là do chính công ty A sản xuất tại Hàn Quốc.

Hoặc công ty A đã cho phép, trao quyền cho một công ty ở Hàn Quốc sản xuất, sử dụng sáng chế của mình tại Hàn Quốc sau đó công ty TNHH Đức Hùng nhập khẩu về Việt Nam.

Căn cứ vào Điều 18 Thông tư 11/2015/TT – BKHCN quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định 99/2013/NĐ – CP ngày 29/8/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp có quy định:

“1. Nhập khẩu song song theo quy định tại Khoản 2 Điều 126 Nghị định 99/2013/NĐ – CP là việc tổ chức, cá nhân nhập khẩu sản phẩm do chính chủ sở hữu hoặc tổ chức, cá nhân được chuyển giao quyền sử dụng, kể cả chuyển giao quyền sử dụng theo quyết định bắt buộc, người có quyền sử dụng trước đối tượng sở hữu công nghiệp đã đưa ra thị trường trong nước hoặc nước ngoài một cách hợp pháp, mặc dù không được sự đồng ý của chủ thể quyền sở hữu công nghiệp.

Tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi nhập khẩu song song không bị coi là hành vi xâm phạm quyền SHCN và không bị xử phạt vi phạm hành chính.”

Theo quy định trên thì sản phẩm điều hòa sử dụng thiết bị vòng bay hơi của công ty TNHH Đức Hùng nhập khẩu và phân phối có thể do công ty A sản xuất tại Hàn Quốc hoặc do một công ty Hàn Quốc được công ty A cho phép sản xuất, sử dụng sáng chế của họ nên việc nhập khẩu này chính là nhập khẩu song song.

Theo khoản 2 Điều 18 Thông tư 11/2015/TT – BKHCN thì chủ thể thực hiện hành vi nhập khẩu song song không bị coi là hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp nên hành vi nhập khẩu của công ty TNHH Đức Hùng là hành vi hợp pháp, không bị coi là hành vi xâm phạm quyền sở hữu sáng chế.

Trường hợp 2: nếu điều hòa đó không do công ty A sản xuất tại Hàn Quốc và công ty A cũng không cho phép bất kỳ công ty nào ở Hàn Quốc sản xuất, sử dụng sáng chế của họ thì hành vi nhập khẩu và phân phối độc quyền của công ty TNHH Đức Hùng là xâm phạm quyền đối với sáng chế của họ.

Muốn xem xét là một hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, chúng ta cần xác định hành vi nào trong tình huống trên là hành vi bị xem xét. Hành vi bị xem xét là hành vi bị nghi ngờ là hành vi xâm phạm và bị xem xét nhằm đưa ra kết luận có phải là hành vi xâm phạm hay không.

Vậy khi áp dụng vào tình huống thì hành vi bị xem xét chính là hành vi nhập khẩu và phân phối sản phẩm điều hòa sử dụng thiết bị “vòng bay hơi” của công ty TNHH Đức Hùng vì hành vi này bị công ty A phát hiện trên thị trường có bán sản phẩm điều hòa sử dụng thiết bị “vòng bay hơi” giống với sáng chế của họ do Công ty B (Hàn Quốc) sản xuất và Công ty TNHH Đức Hùng nhập khẩu và phân phối độc quyền ở Việt Nam.

Chính vì vậy, hành vi trên bị công ty A nghi ngờ là hành vi xâm phạm sáng chế của họ và cần được đưa ra xem xét để đưa ra kết luận cuối cùng xem có phải là hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hay không.

Để hành vi bị xem xét là hành vi xâm phạm quyền sáng chế quy định tại Điều 126 Luật sở hữu trí tuệ thì cần có đủ các căn cứ được quy định tại Điều 5 Nghị định 105/2006/NĐ – CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, bao gồm:

  • Đối tượng bị xem xét thuộc phạm vi các đối tượng đang được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Đối tượng bị xem xét là đối tượng bị nghi ngờ và xem xét nhằm đưa ra kết luận đó có phải là đối tượng xâm phạm hay không.
  • Có yếu tố xâm phạm trong đối tượng bị xem xét. Yếu tố xâm phạm là yếu tố được tạo ra từ hành vi xâm phạm, có thể thuộc một trong các dạng sau: Sản phẩm hoặc bộ phận sản phẩm trùng hoặc tương đương với sản phẩm hoặc bộ phận của sản phẩm thuộc phạm vi bảo hộ sáng chế; Quy trình trùng hoặc tương đương với quy trình thuộc phạm vi bảo hộ sáng chế; Sản phẩm hoặc bộ phận của sản phẩm được sản xuất theo quy trình trùng hoặc tương đương với quy trình thuộc phạm vi bảo hộ sáng chế. Căn cứ để xác định yếu tố xâm phạm quyền đối với sáng chế là phạm vi bảo hộ sáng chế được xác định theo Bằng độc quyền sáng chế, Bằng độc quyền giải pháp hữu ích.
  • Người thực hiện hành vi bị xem xét không phải là chủ thể quyền sở hữu trí tuệ và không phải là người được pháp luật hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định tại các Điều 25, 26, 32, 33, khoản 2 và khoản 3 Điều 125, Điều 133, Điều 134, khoản 2 Điều 137, các Điều 145, 190 và 195 của Luật sở hữu trí tuệ. Theo đó, chủ thể quyền sở hữu trí tuệ là chủ sở hữu quyền sở hữu sở hữu trí tuệ hoặc tổ chức, cá nhân được chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ. Đây là các trường hợp các chủ thể mặc dù không phải là chủ thể của quyền sở hữu trí tuệ nhưng có quyền sử dụng các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với các quy định của pháp luật.
  • Hành vi bị xem xét xảy ra tại Việt Nam. Hành vi bị xem xét cũng bị coi là xảy ra tại Việt Nam nếu hành vi đó xảy ra trên mạng internet nhưng nhằm vào người tiêu dùng hoặc người tiêu dùng tin tại Việt Nam.

Áp dụng vào tình huống trên thì việc nhập khẩu và phân phối sản phẩm điều hòa sử dụng thiết bị “vòng bay hơi” của công ty TNHH Đức Hùng đã xâm phạm quyền sở hữu đối với sáng chế của công ty A (Nhật Bản) tại Việt Nam. Bởi vì hành vi nhập khẩu và phân phối sản phẩm điều hòa đó đã đáp ứng đầy đủ các căn cứ để được coi là hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Cụ thể:

Thứ nhất, đối tượng bị xem xét trong tình huống này chính là sản phẩm điều hòa sử dụng thiết bị “vòng bay hơi” của công ty TNHH Đức Hùng nhập khẩu của công ty B (Hàn Quốc) vì sản phẩm này bị công ty A phát hiện ra giống với sáng chế điều hòa xuyên thấu không cánh quạt của họ nên sản phẩm này được coi đối tượng bị nghi ngờ và xem xét nhằm đưa ra kết luận đó có phải là đối tượng xâm phạm hay không.

Do sản phẩm mà công ty Đức Hùng nhập khẩu có sử dụng thiết bị “vòng bay hơi” giống với sáng chế của công ty A đã đăng ký và được cấp văn bằng bảo hộ ở nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam và tại Việt Nam thì sáng chế đó vẫn đang trong thời hạn bảo hộ nên đối tượng bị xem xét vẫn thuộc đối tượng đang được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Vậy đã đáp ứng được điều kiện đầu tiên.

Thứ hai, có yếu tố xâm phạm trong sản phẩm điều hòa sử dụng thiết bị “vòng bay hơi” bị xem xét. Đó là bộ phận “vòng bay hơi” của sản phẩm điều hòa này trùng với bộ phận của “sáng chế điều hòa xuyên thấu không cánh quạt” của công ty A đã được cấp văn bằng bảo hộ ở nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam mà đây là điểm mấu chốt của sáng chế này là thiết bị “vòng bay hơi” giúp làm mát phòng một cách êm ái, ngăn khí nóng bay ngược vào trong phòng mà không tốn nhiều điện.

Do sáng chế điều hòa của công ty A được cấp văn bằng bảo hộ ở nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam nên phạm vi bảo hộ sáng chế rất rộng, mà công ty TNHH Đức Hùng lại nhập khẩu và phân phối độc quyền tại Việt Nam một sản phẩm có bộ phận trùng với sáng chế đó mà chưa được sự đồng ý và cho phép của công ty A nên đây được coi là căn cứ xác định yếu tố xâm phạm quyền đối với sáng chế.

Thứ ba, người thực hiện hành vi bị xem xét ở đây là công ty TNHH Đức Hùng. Đây không phải là chủ thể quyền sở hữu trí tuệ bởi vì công ty TNHH Đức Hùng vừa không phải chủ sở hữu sáng chế vì không được cục Sở hữu trí tuệ cấp văn bằng bảo hộ sáng chế vừa không phải là tổ chức, cá nhân được công ty A chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ bởi giữa hai công ty này không thực hiện bất kỳ một hợp động chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp nào.

Đồng thời công ty TNHH Đức Hùng cũng không phải là người được pháp luật hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 125, Điều 133, Điều 134, khoản 2 Điều 137, các Điều 145.

Thứ tư, hành vi bị xem xét đã xảy ra tại Việt Nam. Theo đề bài ta có: “Công ty A phát hiện ra trên thị trường có bán sản phẩm điều hòa sử dụng thiết bị vòng bay hơi giống với sáng chế của họ do Công ty B (Hàn Quốc) sản xuất và Công ty TNHH Đức Hùng nhập khẩu và phân phối độc quyền ở Việt Nam”

Từ đó ta thấy địa điểm nhập khẩu và phân phối sản phẩm điều hòa này của công ty TNHH Đức Hùng cũng như thời gian và địa điểm phát hiện ra hành vi đó của công ty A đều xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam nên đã thỏa mãn điều kiện thứ tư.

Mặt khác, theo quy định tại khoản 1 Điều 126 Luật sở hữu trí tuệ có quy định các hành vi bị coi là xâm phạm quyền sở hữu sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí:

  • “Sử dụng sáng chế được bảo hộ, kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ hoặc kiểu dáng công nghiệp không khác biệt đáng kể với kiểu dáng đó, thiết kế bố trí được bảo hộ hoặc bất kỳ phần nào có tính nguyên gốc của thiết kế bố trí đó trong thời hạn hiệu lực của văn bằng bảo hộ mà không được phép của chủ sở hữu”.  

Theo quy định này, hành vi nhập khẩu và phân phối độc quyền sản phẩm điều hòa của công ty TNHH Đức Hùng tại Việt Nam là một trong những hành vi sử dụng sáng chế đang được bảo hộ,

Không được phép của chủ sở hữu – công ty A vì sáng chế điều hòa xuyên thấu không cánh quạt vẫn đang trong thời hạn bảo hộ tại Việt Nam mà công ty Đức Hùng lại nhập khẩu sản phẩm có sử dụng thiết bị giống với sáng chế của họ mà chưa được họ cho phép. Vì vậy, hành vi này được coi là hành vi xâm phạm quyền sở hữu sáng chế.

Như vậy, từ phân tích trên ta thấy hành vi bị xem xét là hành vi nhập khẩu và phân phối độc quyền sản phẩm điều hòa có sử dụng thiết bị “vòng bay hơi” của công ty TNHH Đức Hùng đã thỏa mãn tất cả các căn cứ để coi là hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nên hành vi này bị coi là hành vi xâm phạm sáng chế của công ty A.

Tóm lại, để xem xét là hành vi nhập khẩu và phân phối độc quyền sản phẩm điều hòa có sử dụng thiết bị “vòng bay hơi” của công ty TNHH Đức Hùng có phải là hành vi xâm phạm quyền sở hữu sáng chế hay không thì ta phải căn cứ vào nguồn gốc, xuất xứ của sản phẩm đó. Nếu sản phẩm đó có nguồn gốc xuất xứ từ chính chủ sở hữu sản xuất hoặc cho phép một công ty khác sản xuất thì hành vi đó là không xâm phạm và ngược lại.

Nếu có hành vi xâm phạm thì Công ty A có thể làm gì để bảo vệ quyền lợi của họ?

Công ty A – chủ sở hữu quyền sở hữu sáng chế có thể áp dụng các biện pháp sau đây:

Một là, biện pháp tự bảo vệ: công ty A có quyền áp dụng các biện pháp tự bảo vệ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 198 Luật sở hữu trí tuệ có quy định về quyền tự bảo vệ của chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ như sau:

“1. Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền áp dụng các biện pháp sau đây để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình:

a) Áp dụng biện pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ;

b) Yêu cầu cá nhân, tổ chức có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại;

c) Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan;

d) Khởi kiện ra tòa án, trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp mình.”

Theo quy định trên, công ty A có thể áp dụng biện pháp yêu cầu công ty TNHH Đức Hùng phải chấm dứt hành vi xâm phạm; buộc phải xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại. Cụ thể:

Việc yêu cầu chấm dứt hành vi xâm phạm: công ty A thực hiện bằng cách thông báo bằng văn bản cho hai công ty trên. Trong văn bản thông báo phải có các thông tin chỉ dẫn về căn cứ phát sinh, văn bằng bảo hộ, phạm vi, thời hạn bảo hộ và phải ấn định một thời hạn hợp lý để công ty Đức Hùng chấm dứt hành vi xâm phạm.

Việc buộc công khai xin lỗi, cải chính thông tin: khi hai công ty trên đã chấm dứt hành vi xâm phạm thì công ty A cần yêu cầu công khai xin lỗi, cải chính thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, truyền hình… nhằm khôi phục danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh tiếng cho công ty A.

Việc bồi thường thiệt hại: theo thỏa thuận của hai bên (nếu chưa ra Tòa giải quyết). Hành vi xâm phạm này đã gây thiệt hại cả về vật chất (gồm tổn thất về tài sản, mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận, tổn thất về cơ hội kinh doanh, chi phí hợp lý để ngăn chặn khắ phục thiệt hại) và tinh thần (gồm tổn thất về danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh tiếng và những tổn thất khác về tinh thần gây ra cho chủ sở hữu sáng chế).

Nếu công ty TNHH Đức Hùng đã nhận được thông báo mà không chấm dứt hành vi vi phạm thì khi đó công ty A có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm hoặc khởi kiện ra Tòa án theo thủ tục tố tụng. Cụ thể:

Nếu công ty A chọn biện pháp yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm thì công ty này phải nộp đơn yêu cầu xử lý xâm phạm đến cơ quan nhà nước đó.

Đơn yêu cầu này gồm các nội dung sau:

  • ngày tháng năm làm đơn yêu cầu; tên, địa chỉ của người yêu cầu xử lý xâm phạm hoặc họ tên người đại diện nếu yêu cầu được thực hiện thông qua người đại diện; tên cơ quan tiếp nhận yêu cầu; tên, địa chỉ của người xâm phạm, tên địa chỉ của người bị nghi ngờ là người xâm phạm trong trường hợp yêu cầu tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu bị nghi ngờ xâm phạm; thông tin tóm tắt về quyền sở hữu trí tuệ bị xâm phạm như loại quyền, căn cứ phát sinh quyền, tóm tắt về đối tượng quyền; nội dung yêu cầu áp dụng biện pháp xử lý xâm phạm; các danh mục chứng cứ, tài liệu kèm theo đơn.
So sánh cơ chế bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng và kiểu dáng công nghiệp

Khi nộp đơn yêu cầu xử lý xâm phạm thì công ty A cũng cần phải kèm theo các tài liệu, chứng cứ, hiện vật để chứng minh yêu cầu của mình. Cụ thể:

Chứng cứ chứng minh là chủ thể quyền: thì công ty A cần đưa ra một trong hai tài liệu như bản gốc văn bằng bảo hộ sáng chế hoặc bản sao có công chứng hoặc xác nhận của cơ quan nhà nước đã cấp văn bằng; bản trích lục Sổ đăng ký quốc gia về sở hữu công nghiệp.

Chứng cứ chứng minh hành vi xâm phạm đã xảy ra; chứng cứ nghi ngờ hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu bị nghi ngờ xâm phạm (đối với đơn đề nghị tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu bị nghi ngờ xâm phạm):

  • Công ty A cần đưa ra bản gốc hoặc bản sao hợp pháp tài liệu mô tả, mẫu vật, hiện vật có liên quan đến sáng chế được bảo hộ; vật mẫu, hiện vật có liên quan, ảnh chụp, bản ghi hình sản phẩm điều hòa bị xem xét; bản giải trình, so sánh giữa sản phẩm điều hòa của công ty Đức Hùng với sáng chế điều hòa được bảo hộ; biên bản, lời khai, tài liệu khác. Các tài liệu trên phải thành lập một danh mục, có chữ ký xác nhận của công ty A.

Bản sao Thông báo của công ty A gửi cho công ty B và công ty Đức Hùng, trong đó đã ấn định thời hạn hợp lý để chấm dứt hành vi xâm phạm và chứng cứ chứng minh công ty Đức Hùng  không chấm dứt hành vi xâm phạm trong trường hợp nộp đơn yêu cầu xử lý xâm phạm nhập khẩu hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ.

Chứng cứ và hiện vật chứng minh về điều hòa giả mạo, bộ phận “vòng bay hơi” được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh điều hòa giả mạo này.

Chứng cứ chứng minh yêu cầu áp dụng biện pháp ngăn chặn, bảo đảm xử phạt (nếu đồng thời yêu cầu áp dụng biện pháp ngăn chặn, bảo đảm xử phạt).

Với những tài liệu, chứng cứ để chứng minh trên thì công ty A cần phải bảo đảm và chịu trách nhiệm về sự trung thực của các tài liệu, chứng cứ mà mình cung cấp.

Còn trong trường hợp yêu cầu xử lý xâm phạm được thực hiện thông qua người đại diện theo uỷ quyền thì phải kèm theo giấy ủy quyền hoặc hợp đồng uỷ quyền có công chứng hoặc có xác nhận của chính quyền địa phương; nếu thông qua người đại diện theo pháp luật thì phải kèm theo giấy tờ chứng minh tư cách của người đại diện theo pháp luật.

Nếu công ty A chọn biện pháp khởi kiện ra Tòa án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Khi khởi kiện ra Tòa thì công ty A cần lập hồ sơ khởi kiện, nếu Tòa án thụ lý vụ việc thì khi ra Tòa công ty A cần chứng minh trước Tòa rằng hành vi sản xuất ra điều hòa có sử dụng thiết bị “vòng bay hơi” giống với sáng chế của họ của công ty B và được Công ty TNHH Đức Hùng nhập khẩu và phân phối độc quyền ở Việt Nam là xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.

Căn cứ theo vụ việc và lời khai của hai bên thì Tòa án hoặc trọng tài sẽ đưa ra giải quyết thỏa đáng, hợp tình hợp lý nhất.

Thứ hai, biện pháp hành chính: công ty A có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền  áp dụng biện pháp hành chính. Bởi vì căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 211 Luật sở hữu trí tuệ có quy định hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bị xử phạt hành chính:

“1. Tổ chức, cá nhân thực hiện một trong các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ sau đây bị xử phạt vi phạm hành chính:

a) Xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây thiệt hại cho tác giả, chủ sở hữu, người tiêu dùng hoặc cho xã hội;

b) Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ quy định tại Điều 213 của Luật này hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này.”

Áp dụng vào tình huống, hành vi nhập khẩu và phân phối độc quyền sản phẩm điều hòa có sử dụng vòng bay hơi của công ty TNHH Đức Hùng đã xâm phạm quyền sở hữu sáng chế gây thiệt hại cho công ty A và hành vi này chính là nhập khẩu hàng hóa giả mạo,

Cụ thể là nhập khẩu sản phẩm điều hòa sao chép lậu mà không được sự cho phép của công ty A nên công ty TNHH Đức Hùng sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo Điều 10 của Nghị định số 99/2013/NĐ – CP ngày 29/8/2013 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp có quy định về xâm phạm quyền đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, thiết kế bố trí.

Theo đó, công ty Đức Hùng có thể bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền tùy thuộc vào giá trị của hàng hóa vi phạm; có thể bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung là đình chỉ hoạt động sản xuất, kinh doanh hoàng hóa vi phạm từ 1 tháng đến 3 tháng đối với hành vi vi phạm.

Ngoài ra, công ty còn có thể bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả như: buộc loại bỏ yếu tố vi phạm và tiêu hủy yếu tố vi phạm; buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hàng hóa quá cảnh xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và buộc phải nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiên hành vi xâm phạm; buộc tiêu hủy tang vật, phương tiện vi phạm nếu không loại bỏ được yếu tố vi phạm.

Khi phát hiện ra hành vi xâm phạm quyền sở hữu sáng chế thì công ty A phải viết đơn yêu cầu xử lý vi phạm đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền (như cơ quan Thanh tra, Công an, Quản lý thị trường, Hải quan, Ủy ban nhân dân các cấp). Đơn này phải ghi đầy đủ các thông tin pháp luật quy định và kèm theo các tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền yêu cầu xâm phạm đó.

Thứ ba, biện pháp dân sự: công ty A cũng có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp dân sự kể cả khi hành vi đó đã và đang bị xử lý bằng biện pháp hành chính hoặc biện pháp hình sự.

Khi có yêu cầu của công ty A thì Tòa án có thể áp dụng các biện pháp dân sự để xử lý công ty TNHH Đức Hùng có hành vi xâm phạm quyền sơ hữu sáng chế là:

  • Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm; buộc xin lỗi, cải chính công khai; buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; buộc bồi thường thiệt hại; buộc tiêu hủy hoặc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hóa, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.

Để Tòa án có thể áp dụng các biện pháp dân sự trên thì công ty A cần phải chứng minh mình là chủ thể có quyền và cung cấp các chứng cứ về hành vi xâm phạm quyền sở hữu sáng chế của công ty TNHH Đức Hùng. Trong trường hợp có yêu cầu bồi thường thiệt hại thì công ty A phải chứng minh thiệt hại thực tế đã xảy ra và nêu căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 205 Luật sở hữu trí tuệ.

Để bảo vệ quyền lợi của mình thì công ty A có thể yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Biện pháp khẩn cấp tạm thời này được Tòa án áp dụng theo thủ tục tố tụng dân sự gồm các biện pháp như: thu giữ; kê biên; niêm phong; cấm thay đổi hiện trạng, cấm di chuyển; cấm dịch chuyển quyền sở hữu.

Công ty A chỉ có thể yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp này trong hai trường hợp sau: đang có nguy cơ xảy ra thiệt hại không thể khắc phục được cho chủ thể quyền sở hữu trí tuệ; hàng hóa bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ – chính là sản phẩm điều hòa có sử dụng thiết bị vòng bay hơi hoặc chứng cứ liên quan đến hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có nguy cơ bị công ty TNHH Đức Hùng tẩu tán hoặc bị tiêu hủy nếu không được bảo vệ kịp thời.

Thứ tư, biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ: căn cứ vào khoản 1 và khoản 2 Điều 216 Luật sở hữu trí tuệ có quy định biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ như sau:

“1. Các biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ bao gồm:

a) Tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ;

b) Kiểm tra, giám sát để phát hiện hàng hóa có dấu hiệu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.

Tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ là biện pháp được tiến hành theo yêu cầu của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ nhằm thu thập thông tin, chứng cứ về lô hàng để chủ thể quyền sở hữu trí tuệ thực hiện quyền yêu cầu xử lý hành vi xâm phạm quyền và yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính.”

Theo đó, trong trường hợp cần thiết, để ngăn chặn một cách kịp thời hành vi nhập khẩu và phân phối độc quyền sản phẩm điều hòa của công ty TNHH Đức Hùng tại Việt Nam thì công ty A cần phải trực tiếp hoặc thông qua người đại diện nộp đơn yêu cầu kiểm tra, giám sát để phát hiện hàng hóa nhập khẩu có dấu hiệu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hoặc đơn đề nghị tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của công ty TNHH Đức Hùng.

Thứ năm, biện pháp hình sự: nếu hành vi nhập khẩu và phân phối độc quyền sản phẩm điều hòa đó của công ty TNHH Đức Hùng tại Việt Nam có yếu tố cấu thành tội phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự (Điều 212 Luật sở hữu trí tuệ). Việc áp dụng biện pháp này thuộc thẩm quyền của Tòa án.

Qua bài phân tích trên, ta thấy được vai trò to lớn của việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung cũng như việc bảo hộ sáng chế nói riêng. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay việc bảo hộ sáng chế chưa được chú trọng nên đã xảy ra rất nhiều tranh chấp không đáng có về các giải pháp khoa học – kỹ thuật.

Để cải thiện điều này, pháp luật Việt Nam cần mở rộng thêm vấn đề giải quyết tranh chấp và mỗi cá nhân, tổ chức nên đi đăng ký với Cục Sở hữu trí tuệ để bảo vệ tốt nhất thành quả của mình. Đây chính là cơ sở để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu sáng chế.


Trên đây là phần giải đáp thắc mắc của chúng tôi về vấn đề:hình thức dân chủ trực tiếp qua quyền cơ bản của công dân trong hiến pháp 2013. Nếu trong quá trình giải quyết còn gì thắc mắc bạn có thể liên hệ tới tổng đài tư vấn luật qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy để được giải đáp.

Trân trọng./.

phone-call

GỌI HỎI ĐÁP MIỄN PHÍ

Scroll to Top