Tái cơ cấu là việc xem xét và cấu trúc lại một phần, một số phần hay toàn bộ một tổ chức. Nhu cầu tái cơ cấu trở nên cấp bách khi hiện trạng của các tổ chức đang gặp nhiều vấn đề trong cơ cấu, khiến tổ chức hoạt động không hiệu quả, thậm chí trì trệ, đứng trước nguy cơ tan rã, phá sản. Đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng, nếu những yếu kém trong các tổ chức tín dụng không được xử lý kịp thời sẽ tác động xấu đến ổn định kinh vĩ mô và hệ thống tài chính quốc gia. Vì vậy, việc tái cấu trúc hệ thống các tổ chức tín dụng là cấp thiết để tránh sự đổ vỡ của hệ thống ngân hàng và sự đổ vỡ của nền kinh tế. Do tính nghiêm trọng đó, quá trình tái cơ cấu tổ chức tín dụng phải chịu sự kiểm soát của ngân hàng nhà nước.
Qua bài phân tích sau đây tổng đài tư vấn Luật Quang Huy chúng tôi xin giải quyết về vấn đề: “Tìm hiểu vai trò, trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước đối với việc tái cơ cấu của Tổ chức tín dụng, ý kiến pháp lý cá nhân”
Danh mục tài liệu tham khảo
- Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân hàng Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2014.
- Tô Kim Ngọc, 2015, Đánh giá quá trình tái cơ cấu hệ thống TCTD Việt Nam giai đoạn 2011-2015 và một số khuyến nghị.
- Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2010.
- Luật các tổ chức tín dụng năm 2010.
- Quyết định 254/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng
- Quyết định 339/QĐ-TTg năm 2013 phê duyệt Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế
Khái quát chung về Ngân hàng Nhà nước, Tổ chức tín dụng
Mọi người cũng xem:
Khái quát chung về ngân hàng nhà nước
Khái niệm
Phần lớn luật về ngân hàng của các quốc gia đều đưa ra khái niệm về ngân hàng nhà nước hoặc thông qua những quy phạm pháp luật xác định đặc điểm, chức năng để thể hiện khái niệm về ngân hàng nhà nước. Luật Ngân hàng Nhà nước 2010 không đưa ra khái niệm về Ngân hàng Nhà nước tuy nhiên tại Khoản 1 Điều 2 lại xác định vị trí của Ngân hàng Nhà nước như sau:
“1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là Ngân hàng Nhà nước) là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”
Như vậy, có thể hình dung Ngân hàng Nhà nước như sau:
Là cơ quan quản lí nhà nước thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
Là Ngân hàng trung ương – cầu nối giữa chính phủ với nền kinh tế, giữa thị trường tài chính, tiền tệ trong nước và ngoài nước, các tổ chức tài chính quốc tế.
Đặc điểm
Từ khái niệm trên có thể nhận thấy:
NHNNVN là cơ quan ngang bộ, trực thuộc Chính Phủ. NHNNVN được tổ chức và hoạt động theo những qui định tại các văn bản pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của Chính phủ. Qui trình bổ nhiệm, miễn nhiệm Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam theo các qui định pháp luật hiện hành trong Luật Tổ chức Quốc Hội và Luật tổ chức Chính Phủ.
NHNNVN quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước, NHNNVN sử dụng các phương thức và công cụ quản lý khi thực thi nhiệm vụ của mình,
Ngân hàng nhà nước Việt Nam là Ngân hàng trung ương. Đây là điểm khác biệt giữa NHNNVN với các Bộ khác trong Chính Phủ. Ngân hàng nhà nước Việt Nam còn là một Ngân hàng. Ngân hàng này thực hiện một số hoạt động ngân hàng đặc biệt, bao gồm: hoạt động độc quyền phát hành tiền; cung ứng các dịch vụ tài chính, tiền tệ cho Chính phủ và cho các tổ chức tín dụng.
Về mặt dân sự, NHNNVN là một pháp nhân. NHNNVN có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước, Thủ tướng Chính phủ qui định mức vốn pháp định của NHNNVN phù hợp trong từng thời kỳ. NHNNVN hoạt động theo nguyên tắc Chênh lệch thu, chi hàng năm của Ngân hàng Nhà nước được xác định từ nguồn thu về hoạt động nghiệp vụ ngân hàng và các nguồn thu khác, sau khi trừ chi phí hoạt động và khoản dự phòng rủi ro. Ngân hàng Nhà nước trích từ chênh lệch thu, chi để lập quỹ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia theo quy định của Chính phủ; số còn lại phải nộp vào ngân sách nhà nước.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước
NHNN vừa có tư cách pháp lí của cơ quan quản lí nhà nước chuyên ngành vừa có tư cách pháp lí của ngân hàng trung ương nên chức năng của nó cũng được pháp luật quy định theo hai phương diện: Chức năng quản lí nhà nước và chức năng của ngân hàng trung ương.
Chức năng của cơ quan quản lí nhà nước chuyên ngành được quy định tại chương II, nghị định 36/2012/NĐ-CP quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ.
Chức năng của ngân hàng trung ương thể hiện ở Điều 4 Luật NHNNVN 2010.
Khái quát chung về tổ chức tín dụng
Khái niệm
Khoản 1 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng 2010 có quy định: “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân”
Đặc điểm
Từ khái niệm, có thể thấy:
TCTD là doanh nghiệp có đối tượng kinh doanh trực tiếp là tiền tệ
TCTD là doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh chính, thường xuyên mang tính nghề nghiệp là hoạt động ngân hàng. Đây là dấu hiệu cơ bản để nhận biết tổ chức tín dụng là các loại hình doanh nghiệp khác.
TCTD chịu sự quản lí nhà nước của Ngân hàng Nhà nước và thuộc phạm vi áp dụng luật ngân hàng.
Phân loại
Căn cứ vào phạm vi được thực hiện các hoạt động ngân hàng, các tổ chức tín dụng đựơc phân biệt thành Tổ chức tín dụng là ngân hàng, Tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân:
TCTD là ngân hàng bao gồm: Ngân hàng thương mại; ngân hàng đầu tư, phát triển; ngân hàng chính sách; ngân hàng hợp tác;…
TCTD phi ngân hàng là loại hình TCTD được thực hiện một số hoạt động ngân hàng như là nội dung kinh doanh thường xuyên, nhưng không được nhận tiền gửi không kỳ hạn, không làm dịch vụ thanh toán, bao gồm: Công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính
Tổ chức tài chính vi mô là loại hình tổ chức tín dụng chủ yếu thực hiện một số hoạt động ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của các cá nhân, hộ gia đình có thu nhập thấp và doanh nghiệp nhỏ.
Quỹ tín dụng nhân dân là tổ chức tín dụng do các pháp nhân, cá nhân và hộ gia đình tự nguyện thành lập dưới hình thức hợp tác xã để thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo luật các tổ chức tín dụng và luật hợp tác xã nhằm mục tiêu hỗ trợ nhau phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống.
Căn cứ vốn điều lệ của Tổ chức tín dụng, có thể chia các Tổ chức tín dụng thành các nhóm: Tổ chức tín dụng nhà nước, Tổ chức tín dụng cổ phần (dưới hình thức công ty cổ phần), Tổ chức tín dụng hợp tác, Tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng nước ngoài.
Tái cơ cấu TCTD
Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng và các tổ chức tài chính là một trong những nội dung của tái cấu trúc của nền kinh tế. Theo Claessens (1998), tái cấu trúc ngân hàng là hướng tới việc sắp xếp, nâng cao khả năng quản trị điều hành của ngân hàng thương mại (NHTM) để đảm bảo an toàn hệ thống và hình thành hệ thống các NHTM có sức mạnh tài chính thực sự, khả năng quản lý, kiểm soát rủi ro, quản trị tốt. Tái cấu trúc ngân hàng cũng thường được tiến hành khi có bằng chứng về một hoặc nhiều ngân hàng mất khả năng thanh toán đến hơn 20% tổng tiền gửi toàn hệ thống ngân hàng và cần phải có một gói giải pháp liên quan đến thể chế và luật pháp để xử lý các ngân hàng yếu kém và đưa hệ thống ngân hàng trở về trạng thái lành mạnh bền vững (Waxman, 1998).
Theo Ðinh Tuấn Minh (2012), khác với việc xử lý một ngân hàng yếu kém trong thời kỳ bình thường, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng đòi hỏi một kế hoạch đồng bộ và dài hạn, bao gồm trình tự xử lý cũng như xây dựng các kịch bản dự phòng cho các tình huống xấu nhất, để sao cho trong quá trình tái cấu trúc, hoạt động thanh toán và hoạt động tín dụng của hệ thống không bị ảnh hưởng.
Vai trò ngân hàng nhà nước với việc tái cơ cấu của tổ chức tín dụng
Vai trò, trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước đối với việc tái cơ cấu của Tổ chức tín dụng
Mọi người cũng xem:
Quá trình tái cơ cấu các TCTD
Hệ thống Ngân hàng Việt nam trong 10 năm qua đã có sự phát triển rất nhanh cả về quy mô hoạt động và chất lượng dịch vụ. Đến nay, đã có 5 ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN), chiếm thị phần khoảng 56,9%, 1 ngân hàng phát triển, 1 ngân hàng chính sách chiếm khoảng 3,3%, 37 ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) chiếm khoảng 26,5% thị phần, 28 ngân hàng nước ngoài với tổng số 39 chi nhánh và 5 ngân hàng liên doanh chiếm khoảng 9,4% thị phần, 9 công ty tài chính, 12 công ty cho thuê tài chính và 996 quĩ tín dụng nhân dân chiếm khoảng 3,9% thị phần. Ngoài ra còn có 51 văn phòng đại diện của các tổ chức tín dụng nước ngoài. Tuy nhiên qua quá trình hoạt động, nhiều tổ chức tín dụng bộc lộ rõ sự yếu kém trong quá trình quản lý cũng như hoạt động. Điều này đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước phải đưa ra các biện pháp để kịp thời khắc phục. Điểm nổi bật nhất trong bức tranh tiền tệ, ngân hàng 6 tháng đầu năm chính là hoạt động tái cơ cấu các ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng yếu kém.
Trong những năm gần đây, đặc biệt sau Nghị quyết Trung ương 3 – Khóa XI, việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng được đặt ra và có lộ trình cụ thể. Cuối năm 2011, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã đưa ra 4 mục tiêu của tái cơ cấu hệ thống ngân hàng bao gồm: (i) lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng; (ii) nâng cao năng lực cạnh tranh cho hệ thống ngân hàng; (iii) cấu trúc lại cơ cấu hoạt động của hệ thống ngân hàng; (iv) hệ thống ngân hàng phải hòa nhập và có sức cạnh tranh với quốc tế. Tiếp đó, ngày 01/03/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Ðề án cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) giai đoạn 2011-2015 kèm theo Quyết định 254/QÐ-TTg. Ðây được xem là một nỗ lực về mặt pháp lý quan trọng nhất cho tới nay trong việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng. Quyết định này tạo ra một hành lang rộng để xử lý các ngân hàng yếu kém và đề ra một lộ trình cho đến năm 2015.
Theo Ðề án, việc tái cấu trúc ngành ngân hàng sẽ được thực hiện qua 3 bước. Bước thứ nhất là tái cơ cấu thanh khoản của các ngân hàng, đặc biệt là những ngân hàng yếu kém thông qua hình thức hợp nhất, sáp nhập. Bước thứ hai là lành mạnh hóa tài chính của các NHTM mà trọng tâm là xử lý nợ xấu và minh bạch hóa tài chính. Bước thứ ba là tiến hành tái cấu trúc về tổ chức hoạt động, tái cơ cấu chiến lược, thiết kế lại hệ thống quản trị rủi ro ngân hàng.
Ngay trong hai năm 2012 và 2013, có chín NHTM nhỏ đã được đưa vào chương trình phải thực hiện tái cơ cấu bắt buộc thông, qua các biện pháp khác nhau, như hợp nhất (SCB, Ficombank, TinnghiaBank), sáp nhập (Habubank vào SHB), và tự tái cơ cấu (TienphongBank, TrustBank, Navibank, Westernbank và GP Bank).
Năm 2015, NHNN đang và sẽ tiếp tục triển khai quyết liệt và đồng bộ hơn giai đoạn 2 với trọng tâm tái cơ cấu, sáp nhập và xử lý nợ xấu. Cùng với việc tạo điều kiện thuận lợi và ủng hộ hoạt động sáp nhập, hợp nhất trên cơ sở tự nguyện, phù hợp với lợi ích, chiến lược kinh doanh của từng NHTM và bảo đảm tuân thủ các quy định của pháp luật, NHNN sẽ xem xét áp dụng biện pháp can thiệp, thông qua mua cổ phần và sáp nhập bắt buộc một số NHTM “dưới chuẩn”, với sự tham gia tích cực của các NHTM Nhà nước và mở cửa nhiều hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Theo kế hoạch của NHNN, trong năm 2015 sẽ có khoảng 6-7 vụ M&A bắt buộc và có thể thêm nhiều vụ M&A tự nguyện khác, để tới năm 2017, cả nước còn lại khoảng hơn 20 NHTM mạnh. Trong quý II-2015, thông qua M&A, hệ thống ngân hàng đang thực hiện cơ cấu lại với một số ngân hàng (NH) sáp nhập như Sacombank – Southernbank, Vietinbank–PGBank, BIDV–MHB, Vietcombank – SaigonBank, Maritime Bank – MekongBank, Eximbank – NamAbank.
Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam (VNCB) và Ngân hàng TMCP Đại Dương (OceanBank) do bị âm vốn trong khi các cổ đông không đồng thuận bổ sung vốn để đáp ứng yêu cầu về vốn pháp định (3.000 tỷ đồng) nên, để đảm bảo quyền và lợi ích của người gửi tiền, NHNN đã buộc phải tuyên bố mua lại bắt buộc toàn bộ cổ phần của hai ngân hàng này với giá 0 đồng.
Cho đến nay, với sự hỗ trợ quản lý của Vietcombank, VNCB đã đổi tên thành Ngân hàng thương mại TNHH MTV Xây dựng VN (CBBank) và đi vào hoạt động trở lại. OceanBank trong khi đó nhận sự hỗ trợ từ phía VietinBank và cũng đã chuyển thành Ngân hàng TNHH MTV thuộc sở hữu 100% của Nhà nước.
Quyết định của NHNN được đánh giá cao, thể hiện quyết tâm xử lý các ngân hàng yếu kém của cơ quan quản lý. Tuy nhiên, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) vẫn khuyến cáo NHNN rằng đó chỉ nên là bước đi đầu tiên hướng đến khuôn khổ phù hợp về thanh lý và phá sản ngân hàng, thông qua đó nguyên tắc kỷ luật thị trường được tăng cường đối với cả cổ đông và người gửi tiền.
Một số TCTD phi ngân hàng quá yếu kém, chi phí cơ cấu lại quá lớn so với lợi ích đem lại từ việc duy trì hoạt động đang được tiếp tục rà soát, đánh giá và xem xét xử lý. Một số tập đoàn và tổng công ty nhà nước đang trong quá trình đàm phán bán lại công ty tài chính cho nhà đầu tư khác. Những TCTD phi ngân hàng hoạt động bình thường cũng đang triển khai cơ cấu lại theo Quyết định số 254/QĐ-TTg để nâng cao mức độ an toàn, hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh.
Đối với quỹ tín dụng nhân dân, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương đã hoàn thành việc chuyển mô hình hoạt động thành Ngân hàng Hợp tác xã nhằm thực hiện tốt mục tiêu liên kết hệ thống, hỗ trợ tài chính và điều hòa vốn trong hệ thống các quỹ tín dụng nhân dân, góp phần giúp các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở hoạt động hiệu quả theo nguyên tắc hợp tác xã.
Vai trò của Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng nhà nước tiến hành phân loại tổ chức tín dụng để tiến hành tái cơ cấu
Ngân hàng Nhà nước đã tiến hành phân loại hệ thống NHTM thành ba nhóm: Nhóm 1, gồm các NHTM có tình hình tài chính lành mạnh, có năng lực quy mô đủ lớn để phát triển thành các ngân hàng trụ cột trong hệ thống; Nhóm 2, gồm các NHTM có tình hình tài chính lành mạnh, nhưng qui mô nhỏ; Nhóm 3, gồm các NHTM có tình hình tài chính khó khăn, buộc phải thực hiện tái cơ cấu. Năm 2012, NHNN tập trung củng cố thanh khoản hệ thống ngân hàng, lành mạnh hóa hoạt động tài chính của các NHTM mà trọng tâm là xử lý nợ xấu và minh bạch hóa tài chính và tái cơ cấu tổ chức, hoạt động và quản trị hệ thống ngân hàng. Năm 2013, NHNN chuyển sang giai đoạn hai của nhiệm vụ lành mạnh hóa tài chính hệ thống ngân hàng với việc tăng cường xây dựng các qui định về an toàn vốn, xử lý nợ xấu hệ thống qua việc thành lập VAMC và tăng cường quản trị rủi ro, hướng đến chuẩn mực Basel II.
Việc phân loại các tổ chức tín dụng này giúp cho Ngân hàng Nhà nước nhận định rõ tình trạng tài chính và khả năng hoạt động của các tổ chức tín dụng từ đó đề ra đúng biện pháp khắc phục, cơ cấu lại các tổ chức tín dụng yếu kém, ổn định nền kinh tế, đồng thời tạo điều kiện dễ dàng cho Ngân hàng Nhà nước trong việc thanh tra, giám sát các tổ chức tín dụng.
Đánh giá, xác định thực trạng hoạt động, chất lượng tài sản và nợ xấu của các tổ chức tín dụng
Dựa trên báo cáo tài chính của các tổ chức tín dụng và quá trình thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà nước đánh giá, xác định được thực trạng hoạt động của các tổ chức tín dụng, chất lượng tài sản và nợ xấu của các tổ chức tín dụng.
Thống kê của NHNN cho thấy, tỷ lệ nợ xấu tính đến tháng 6/2015 là 3,72% trên tổng dư nợ. NHNN cũng khẳng định kể từ tháng 3/2015, số liệu nợ xấu phản ánh chính xác hơn về chất lượng tín dụng của các TCTD, không còn khác biệt nhiều giữa số liệu TCTD báo cáo và số liệu giám sát của NHNN. Về bản chất, tỷ lệ nợ xấu theo báo cáo của các TCTD đang có xu hướng giảm đi khi so sánh với tỷ lệ nợ xấu theo giám sát của NHNN.
Việc đánh giá, kiểm tra chất lượng tài sản và nhận định tình hình nợ xấu của các tổ chức tín dụng sẽ giúp Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng nhìn nhận rõ tình hình hoạt động của tổ chức tín dụng, từ đó đưa ra được các chính sánh phù hợp để ổn định tình trạng hoạt động.
NHNN đóng vai trò chỉ đạo trong việc triển khai đầy đủ các nội dung Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011 – 2015” và đạt được một số kết quả nhất định.
Cụ thể, vốn điều lệ của các TCTD tăng 8,12% so với năm 2012; quy mô sở hữu chéo tương đương khoảng 6,6% vốn điều lệ. NHNN đã phê duyệt 26/32 phương án cơ cấu lại của các TCTD hoạt động bình thường, 07/11 phương án của các TCTD phi ngân hàng hoạt động bình thường và 08/09 phương án của các NHTM cổ phần yếu kém được xác định từ năm 2012. NHNN cũng hoàn thành việc xây dựng và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD và Đề án thành lập Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) để triển khai thực hiện; đề ra các giải pháp cơ cấu lại hoạt động và quản trị của các TCTD. VAMC đã mua nợ xấu đến 31/12/2013 là 30.947 tỷ đồng và đến 31/3/2014 là 33.220 tỷ đồng, góp phần giảm tỷ lệ nợ xấu của các TCTD
Đề ra các phương pháp để tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và hướng dẫn các tổ chức này thực hiện
Sau khi phân loại các TCTD theo các nhóm khác nhau, NHNN đã xây dựng và thực hiện các phương án xử lý; áp dụng các giải pháp hỗ trợ, cải thiện thanh khoản cho các ngân hàng yếu kém… Những kế hoạch, bước đi cụ thể đã giúp ngân hàng yếu kém vượt khó, tự tái cấu trúc, tránh đổ vỡ trong hệ thống
Ngoài tập trung xử lý 9 ngân hàng thương mại cổ phần yếu được xác định từ đầu, trong thời gian qua NHNN tiếp tục đánh giá và yêu cầu thêm một số ngân hàng khác xây dựng phương án tái cơ cấu, nhằm xử lý một cách dứt điểm và căn bản các TCTD yếu kém theo đúng mục tiêu và lộ trình đề ra. Song song với đó, NHNN yêu cầu các ngân hàng thương mại cổ phần tăng vốn điều lệ để hỗ trợ và cải thiện thanh khoản, góp phần nâng cao tỷ lệ an toàn vốn hướng tới tiêu chuẩn thông lệ quốc tế.
Trả lời phỏng vấn của phóng viên tạp chí Tài chính, Phó Thống đốc NHNN Đào Minh Tú cho biết, quá trình xử lý ngân hàng yếu kém của Việt Nam diễn ra rất tích cực. Tất cả những ngân hàng yếu kém đều được cơ quan quản lý giám sát chặt chẽ và không còn ngân hàng mất thanh khoản, ảnh hưởng đến an toàn hệ thống. Đồng thời, NHNN đang tiếp tục từng bước hỗ trợ các ngân hàng nâng cao năng lực quản trị dưới nhiều hình thức có thể là sáp nhập, tự cấu trúc…“Quan điểm của Chính phủ, NHNN là không can thiệp trực tiếp mà chỉ giám sát tôn trọng các phương án tái cơ cấu của các ngân hàng, nhưng phải đảm bảo tái cơ cấu một cách hiệu quả, tích cực”, Phó Thống đốc nhấn mạnh.
NHNN đã chỉ đạo các NHTM một cách quyết liệt trong việc thực hiện phân loại nợ, trích lập và sử dụng nguồn dự phỏng rủi ro để chủ động xử lý nợ xấu.
Một trong những vấn đề mang tính quyết định đối với chương trình tái cơ cấu hệ thống và cũng là nhiệm vụ nặng nề đối với các TCTD là phương án xử lý nợ xấu. Thời gian qua, NHNN đã chỉ đạo các NHTM một cách quyết liệt trong việc thực hiện phân loại nợ, trích lập và sử dụng nguồn dự phỏng rủi ro để chủ động xử lý nợ xấu. Theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN (Thông tư 02), kể từ ngày 12/4/2015, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (gọi chung là TCTD) phải thực hiện phân loại nợ.
Để nắm bắt, giám sát tình hình việc thực hiện phân loại nợ và xử lý nợ xấu của TCTD theo chỉ đạo của Thống đốc NHNN tại Thông báo số 195/TB-NHNN ngày 02/7/2015, NHNN yêu cầu TCTD có nợ xấu từ 3% trở lên triển khai quyết liệt các giải pháp xử lý nợ xấu ngay trong tháng 7/2015 để đưa nợ xấu xuống dưới 3% và hoàn thành kế hoạch xử lý nợ xấu được NHNN phê duyệt trước ngày 30/9/2015. NHNN cũng yêu cầu, từ kỳ báo cáo tháng 6/2015, định kỳ hàng tháng, các TCTD phải thực hiện phân loại nợ theo quy định tại Thông tư 02 cho đến khi có thông báo mới của NHNN.
Số liệu về tình hình nợ xấu toàn hệ thống cho thấy, đến cuối tháng 5/2015 tỷ lệ nợ xấu ở mức 3,15%, giảm mạnh so với các tháng đầu năm. Cùng với các biện pháp xử lý nợ xấu của các TCTD, VAMC cũng đã mua được hơn 28 nghìn tỷ đồng nợ xấu từ đầu năm tới nay, nâng tổng số nợ xấu mua được từ khi đi vào hoạt động lên gần 144 nghìn tỷ đồng.
Trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước
Quyết định 254/QĐ-TTg ngày 1-3-2012 của Thủ tướng Chính phủ thông qua Đề án 254 “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015”; sau đó, được khẳng định lại như một nội dung hợp thành của Đề án tổng thể tái cơ cấu gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013-2010 trong Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 19-2-2013 của Thủ tướng Chính phủ được phê duyệt đã xác định trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước trong việc tái cơ cấu tổ chức tín dụng như sau:
Chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, tổ chức và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có liên quan tổ chức triển khai thực hiện Đề án;
Đánh giá, xác định thực trạng hoạt động, chất lượng tài sản và nợ xấu của các tổ chức tín dụng;
Chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, tổ chức có liên quan xây dựng và trình Chính phủ phê duyệt Đề án “Chiến lược phát triển ngành ngân hàng đến năm 2019”, Đề án “Chống đô la hóa trong nền kinh tế”;
Chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, tổ chức có liên quan xây dựng Quyết định quy định về việc góp vốn, mua cổ phần của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại tổ chức tín dụng theo quy định tại Khoản 3 Điều 149 của Luật Các tổ chức tín dụng để trình Thủ tướng Chính phủ ban hành trước ngày 01 tháng 7 năm 2012;
Chỉ đạo, hướng dẫn, giám sát các tổ chức tín dụng xây dựng và triển khai Phương án cơ cấu lại tại từng tổ chức tín dụng theo các giải pháp nêu trong Đề án kèm theo Quyết định này;
Tăng cường công tác quản lý nhà nước và thanh tra, giám sát thị trường tiền tệ và hoạt động của các tổ chức tín dụng;
Chủ trì, phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông, các cơ quan, tổ chức, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan thông tin, truyền thông thực hiện thông tin, tuyên truyền các chủ trương, chính sách về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng để ổn định tâm lý, tạo sự đồng thuận trong xã hội và tránh gây tác động tiêu cực đến hệ thống ngân hàng, thị trường tài chính;
Hướng dẫn, đôn đốc các Bộ, cơ quan và tổ chức có liên quan thực hiện Đề án; định kỳ báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước ngày 01 tháng 7 và ngày 31 tháng 12 hàng năm về tiến độ, kết quả, khó khăn, vướng mắc và đề xuất giải pháp xử lý về việc thực hiện Đề án; kịp thời báo cáo Thủ tướng Chính phủ xử lý các vấn đề phát sinh vượt thẩm quyền.
Một số vấn đề và kiến nghị
Mọi người cũng xem:
Những thành công đạt được của việc tái cơ cấu các tổ chức tín dụng
Sau 5 năm thực hiện Đề án 254 về tái cơ cấu hệ thống các TCTD, hoạt động xử lý các ngân hàng yếu kém đã đạt được một số kết quả như sau:
Nguy cơ đổ vỡ ngân hàng, hệ thống đã được kiểm soát, ngăn chặn và đẩy lùi. Khả năng thanh khoản, chi trả của hệ thống đã được cải thiện.
Cơ bản đã kiểm soát được tình hình của các NHTM cổ phần yếu kém. Các NHTM yếu kém được tập trung xử lý dứt điểm nhằm từng bước khôi phục hoạt động
Từng bước giảm bớt số lượng các NHTM thông qua cơ cấu lại các ngân hàng yếu kém.
Chất lượng hoạt động của các NHTM đã được cơ cấu lại có một số chuyển biến tích cực dù chưa rõ nét. Các NHTM cổ phần hình thành sau sáp nhập, hợp nhất tiếp tục được củng cố, hoạt động ổn định” như ngân hàng Pvcombank, Sacombank, SHB.
Tăng cường năng lực tài chính đối với các TCTD.
Từng bước hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tiền tệ và ngân hàng, nâng cao vai trò và hiệu quả quản lý nhà nước, công tác chỉ đạo, điều hành của NHNN trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, hỗ trợ cơ cấu lại các NHTM.
Những vấn đề còn tồn tại
Hiện nay, xử lý chéo đang là một trong hai vấn đề nổi cộm và nan giải nhất của quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam bên cạnh việc xử lý nợ xấu. Hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam hiện đang tồn tại 6 nhóm sở hữu chéo khác nhau: Nhóm 1 là sở hữu của các ngân hàng trong nước và nước ngoài tại các ngân hàng liên doanh; Nhóm 2 là cổ đông chiến lược nước ngoài tại các ngân hàng thương mại trong nước; Nhóm 3 là cổ đông tại các ngân hàng là các công ty quản lý quỹ; Nhóm 4 là sở hữu của các ngân hàng thương mại nước ngoài tại các ngân hàng thương mại cổ phần; Nhóm 5 là sở hữu lẫn nhau giữa các ngân hàng thương mại cổ phần; Nhóm 6 là sở hữu ngân hàng cổ phần bởi các tập đoàn, tổng công ty nhà nước và tư nhân. Thực trạng sở hữu chéo đang có xu hướng diễn biến phức tạp và tiềm ẩn rủi ro. Nhận thức được tác động tiêu cực của sở hữu chéo đối với an toàn hoạt động của từ tổ chức tín dụng nói riêng, an toàn của hệ thống tổ chức tín dụng nói chung, và đặc biệt là những cản trở của sở hữu chéo đối với quá trình cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nức đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm xử lý sở hữu chéo, gắn với quá trình cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng.
Mục tiêu cơ bản, lâu dài của quá trình tái cơ cấu ngân hàng là tạo dựng được các ngân hàng thương mại lành mạnh, hoạt động an toàn và hiệu quả, có năng lực quản trị tiên tiến. Đề án 254 đã đề ra 7 giải pháp cơ cấu lại hoạt động và 13 giải pháp cơ cấu lại quản trị của các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, sau gần 5 năm, kết quả cơ cấu lại hoạt động và quản trị của các tổ chức tín dụng còn khá khiêm tốn, hệ thống quản trị vẫn chưa thay đổi rõ nét. Nhiều vụ việc sai phạm điển hình của nagnhf ngân hàng như vụ Nguyễn Đức Kiên làm thất thoát 1400 tỷ đồng, Huỳnh Thị Huyền Như lừa đảo 4000 tỷ đồng của 3 ngân hàng, 9 tổ chức và 3 cá nhân đều xảy ra tại các ngân hàng thương mại được đnahs giá cao về năng lực quản trị và chất lượng dịch vụ như Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB), Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (Vietinbank).
Một số giải pháp thực hiện hiệu quả quá trình tái cơ cấu hệ thống tổ chức tín dụng và nâng cao vai trò chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước
Qua các kết quả nghiên cứu có thể thấy việc tái cơ cấu các tỏ chức tín dụng, chuyển đổi mô hình tăng trưởng của thị trường tài chính là cẩn thiết vì việc cải thiện hiệu quả của các chính sach tiền tệ phụ thuộc rất nhiều vào cấu trúc của thị trường tài chính. Qua đó phát huy và âng cao vai trò của thị trường tài chính tương đương một kênh truyền tải tác động của chính sách tiền tệ.
Từ năm 2015 trở đi, cần quyết liệt hơn nữa trong các biện pháp tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các ngân hàng không hoạt động hiệu quả nhằm lấy lại niềm tin cho thị trường cũng như tái tạo lại một hệ thống tín dụng lành mạnh và một môi trường cạnh tranh bình đẳng.
Việc tái cơ cấu các tổ chức tín dụng phải luôn song hành với hoạt động điều chỉnh cấu trúc của thị trường tài chính nhằm đồng bộ hóa trình độ và mức độ phát triển của các nhân tố cấu thành thị trường thành một thể thống nhất, qua đó cụ thể hóa các mục tiêu quan trọng của chính sách tiền tệ.
Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò điều hành thị trường cân xây dựng những hoạch định mang tầm chiến lược, có tính khả thi và tính thuyết phục cao nhằm tạo lập một hệ thống tài chính lành mạnh, môi trường cạnh tranh bình đẳng và hệ thống thông tin minh bạch, qua đó giúp thị trường phát triển ổn định hơn. Các chính sách, cơ chế được xâu dựng cần phải dựa trên lợi ích và triển vọng của khu vực tài chính; các hoạch định và chính sách này cần phải được đổi mới hơn, áp dụng linh hoạt hơn nhằm thích ứng tốt nhất với các biết động của thị trường, qua đó hạn chế và quản trị tốt rủi ro. Ngoài ra, hệ thống cán bộ thanh tra cần phải được cải thiện và kiện toàn hơn nữa để có thể quản lý tốt các biến cố mới, phức tạp của thị trường và thích nghi với sự đa dạng của thị trường tài chính.
Công tác dự báo và xây dựng tính sách tiền tệ hàng năm cần được đổi mới một cách căn bản, qua đó có thể áp dụng mô hình kinh tế lượng vào phân tích dự báo và qua từng thời kỳ có thể lượng hóa các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Năng lực điều hành hính sách tiền tệ cũng cần được nâng cao hơn nữa bằng việc xác định rõ cơ chế truyền tải tác động chính sách tiền tệ, ngoài ra việc đổi mới cơ chế điều hành cung ứng tiền theo thông lệ quốc tế là rất cần thiết.
Nhanh chóng hoàn thiện các công cụ hỗ trợ cho việc điều hành chính sách tiền tệ tốt hơn của Ngân hàng Nhà nước, giảm bớt các tác động mang tính hành chính của Ngân hàng Nhà nước vào thị trường thay vào đó là áp dụng các công cụ linh hoạt hơn, điều hành lãi suất cần gắn chặt hơn với điều hành tỷ giá. Xác định rõ quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước trong việc hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ, các chức năng và vai trò thực thi các chính sách tài khóa – tiền tệ cũng cần được phân định rõ ràng. Ngoài ra cần thể chế hóa sự phối hợp của Ngan hàng Nhà nước với Bộ Tài chính, Ủy ban chứng khoán Nhà nước để có thể giám sát toàn bộ thị trường.
Hiện nay, việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng được xem là khâu then chốt nằm trong chiến lược tái cấu trúc tổng thể nền kinh tế. Ngày 01/03/2012, Thủ tướng Chính phủ thông qua Đề án 254 “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015”. Tinh thần mà đề án thể hiện là quá trình tái cơ cấu các NHTM và TCTD giai đoạn 2012-2015 được tập trung vào nhiệm vụ giữ ổn định hệ thống, từng bước tập trung lành mạnh hóa tình trạng tài chính, xử lý nợ xấu, bảo đảm khả năng thanh toán, xử lý tình trạng sở hữu chéo và minh bạch hóa hoạt động tín dụng của hệ thống và từng TCTD.
Trên đây là phần giải đáp thắc mắc của chúng tôi về vấn đề: Vai trò ngân hàng nhà nước với việc tái cơ cấu của tổ chức tín dụng . Nếu trong quá trình giải quyết còn gì thắc mắc bạn có thể liên hệ chúng tôi qua tổng đài tư vấn pháp luật qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy để được giải đáp.
Trân trọng./.