Chồng đứng tên tài sản, khi ly hôn sẽ được chia như thế nào?

Ảnh minh họa

Bà Thanh hỏi, khi phân loại tài sản, tòa án nhân dân có địa thế căn cứ những sách vở đó để xác lập tài sản chung, riêng không? Việc chia tài sản của vợ chồng bà như thế nào trong trường hợp này? Văn phòng Luật Quang Huy – Đoàn Luật sư Thành Phố Hà Nội vấn đáp thắc mắc của bà Mai Thanh như sau:

Nội dung

Tài sản chung vợ chồng

Tại Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 quy định: Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận.

Trong trường hợp tài sản thuộc chiếm hữu chung của vợ chồng mà pháp lý lao lý phải ĐK quyền sở hữu thì trong giấy ghi nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng tỏ tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung.

Tài sản riêng của vợ, chồng

Theo khoản 1, Điều 32 Luật Hôn nhân và Gia đình pháp luật: Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được khuyến mãi cho riêng trong thời kỳ hôn nhân gia đình; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo pháp luật tại khoản 1, Điều 29 và Điều 30 của Luật này; vật dụng, tư trang cá thể.

Trường hợp có tranh chấp

Tại điểm b, Mục 3 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, quy định cụ thể về việc giải quyết trường hợp có tranh chấp tài sản như sau:

Để bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ chính đáng của những bên, trong trường hợp tài sản do vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân gia đình mà pháp lý pháp luật phải ĐK quyền sở hữu, nhưng trong Giấy ghi nhận quyền sở hữu chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng, nếu không có tranh chấp thì đó là tài sản chung của vợ chồng.

Nếu có tranh chấp là tài sản riêng thì người có tên trong Giấy ghi nhận quyền sở hữu phải chứng tỏ được tài sản này do được thừa kế riêng, được Tặng Ngay riêng trong thời kỳ hôn nhân gia đình hoặc tài sản này có được từ nguồn tài sản riêng lao lý tại khoản 1, Điều 32.

Trong trường hợp không chứng tỏ được tài sản đang có tranh chấp này là tài sản riêng thì theo pháp luật tại khoản 3, Điều 27 tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng. Trường hợp vợ chồng bà Mai Thanh trong thời kỳ hôn nhân gia đình có mua một ngôi nhà, nhưng trên Giấy ghi nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở chỉ thay mặt đứng tên chồng bà Thanh.

Nay, vợ chồng bà đang nhu yếu Tòa án xử lý việc ly hôn, chồng bà Thanh cho rằng ngôi nhà đó là tài sản riêng, còn bà Thanh thì cho rằng ngôi nhà là tài sản chung vợ chồng. Theo pháp luật tại khoản 3, Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình và hướng dẫn tại điểm b, Mục 3 Nghị quyết số 02/2000 / NQ-HĐTP, do chồng bà Thanh thay mặt đứng tên một mình trên Giấy ghi nhận quyền sử dụng đất, chiếm hữu nhà, nên ông phải có nghĩa vụ và trách nhiệm chứng tỏ nhà đất có được từ nguồn tài sản riêng.

Theo pháp luật tại Điều 79 Bộ Luật tố tụng dân sự, đương sự có nhu yếu Tòa án bảo vệ quyền và quyền lợi hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng tỏ cho nhu yếu đó là có địa thế căn cứ và hợp pháp; Đương sự phản đối nhu yếu của người khác so với mình phải chứng tỏ sự phản đối đó là có địa thế căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng tỏ; Đương sự có nghĩa vụ và trách nhiệm đưa ra chứng cứ để chứng tỏ mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng tỏ được hoặc chứng tỏ không vừa đủ đó.

Tòa án sẽ nhìn nhận khách quan, tổng lực những chứng cứ gồm: sách vở, tài liệu do đương sự phân phối, lời khai của đương sự; lời khai của người làm chứng; Tóm lại giám định … để xác lập ngôi nhà do người chồng thay mặt đứng tên trên Giấy ghi nhận là tài sản riêng của chồng hay là tài sản chung của vợ chồng.

Việc chia tài sản khi ly hôn sẽ được Tòa án áp dụng theo nguyên tắc quy định tại Điều 95 Luật Hôn nhân và Gia đình: Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó; Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này.

Luật Quang Huy – Đoàn luật sư Hà Nội

Source: https://www.luatquanghuy.edu.vn
Category: Ly hôn

phone-call

GỌI HỎI ĐÁP MIỄN PHÍ

Scroll to Top