4 quyền lợi của người phụ nữ được hưởng khi ly hôn là gì?

Pháp luật luôn hướng tới bảo vệ cho những đối tượng yếu thế trong xã hội như người già, phụ nữ, trẻ em,… để đảm bảo họ được những quyền bình đẳng như những đối tượng khác trong xã hội. Trong luật hôn nhân và gia đình có quy định về quyền lợi của người phụ nữ được hưởng khi ly hôn cụ thể như: quyền yêu cầu ly hôn; quyền được chia tài sản chung sau ly hôn; quyền được nuôi con dưới 36 tháng tuổi; quyền lưu cư khi ly hôn. Hãy cùng Luật Nguyễn Hưng đi tìm hiểu chi tiết về 4 quyền lợi của phụ nữ khi ly hôn trong bài viết sau đây.

Quyền yêu cầu ly hôn

Không phải chỉ khi nào cả hai vợ chồng đồng ý chấp thuận ly hôn thì mới được ly hôn. Theo lao lý tại khoản 1 Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình về quyền nhu yếu ly hôn:

“ Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền nhu yếu Tòa án xử lý ly hôn. ”

Như vậy, khi muốn ly hôn, người vợ vẫn hoàn toàn có thể tự mình nhu yếu Tòa án xử lý ly hôn mà không cần sự chấp thuận đồng ý của người chồng.

>> Dịch vụ ly hôn đơn phương nhanh trọn gói uy tín chuyên nghiệp tại TPHCM.

Quyền lợi của người phụ nữ được hưởng khi ly hôn

Quyền được chia tài sản chung sau ly hôn (phụ nữ ở nhà nội trợ vẫn là lao động có thu nhập)

Căn cứ theo Điều 38 Luật hôn nhân gia đình và mái ấm gia đình năm năm trước, trong thời kỳ hôn nhân gia đình ( được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm hết hôn nhân gia đình ), hai vợ chồng có quyền thỏa thuận hợp tác phân loại một phần hoặc hàng loạt gia tài chung. Tòa án sẽ tôn trọng sự thỏa thuận hợp tác của vợ chồng trước, nếu hai vợ chồng không thỏa thuận hợp tác được thì có quyền nhu yếu Tòa án xử lý. Do đó, khi ly hôn, người vợ có quyền được chia gia tài chung trong quy trình hôn nhân gia đình của hai vợ chồng.

Căn cứ Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình lao lý về nguyên tắc xử lý gia tài của vợ chồng khi ly hôn như sau:

“ Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến những yếu tố sau đây:

  1. Hoàn cảnh của mái ấm gia đình và của vợ, chồng;
  2. Công sức góp phần của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và tăng trưởng khối gia tài chung. Lao động của vợ, chồng trong mái ấm gia đình được coi như lao động có thu nhập;
  3. Bảo vệ quyền lợi chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh thương mại và nghề nghiệp để những bên có điều kiện kèm theo liên tục lao động tạo thu nhập;
  4. Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của vợ chồng. ”

Như vậy, gia tài chung của vợ, chồng được chia đôi nhưng có tính đến sức lực lao động góp phần. Vậy, vợ chỉ ở nhà nội trợ thì xác lập sức lực lao động góp phần của vợ như thế nào để phân loại gia tài chung? Theo hướng dẫn tại Điều 7 Thông tư liên tịch 01/2016 / TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ​ thì là sự góp phần về gia tài riêng, thu nhập, việc làm mái ấm gia đình và lao động của vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và tăng trưởng khối gia tài chung. Người vợ hoặc chồng ở nhà chăm nom con, mái ấm gia đình mà không đi làm được tính là lao động có thu nhập tương tự với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có sức lực lao động góp phần nhiều hơn sẽ được chia nhiều hơn.

Do đó, với trường hợp vợ ở nhà nội trợ, người vợ thực hiện công việc nội trợ, trông nom con cái, chăm sóc gia đình, lo công việc nội trợ. Người vợ không đi làm và không có thu nhập hàng tháng thì vẫn được tính là có thu nhập tương đương với thu nhập của chồng mình và vẫn được chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Không phải là không đi làm, không trực tiếp tạo lập tài sản trong gia đình thì sẽ không được phân chia tài sản.

Quyền được nuôi con dưới 36 tháng tuổi và yêu cầu cấp dưỡng

Trường hợp hai vợ chồng ly hôn và có tranh chấp về quyền nuôi con, thì quyền nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi của người vợ được ưu tiên hơn, đơn cử:

Quyền được nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi ly hôn

Căn cứ khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và mái ấm gia đình về việc chăm nom, chăm nom, nuôi dưỡng, giáo dục sau khi ly hôn:

“ Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện kèm theo để trực tiếp trông nom, chăm nom, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận hợp tác khác tương thích với quyền lợi của con. ”

Như vậy, khi ly hôn, so với con dưới 36 tháng tuổi sẽ được giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện kèm theo nuôi dưỡng hoặc cha mẹ có thỏa thuận hợp tác khác.

Cùng với việc được quyền nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người vợ còn có quyền yêu cầu người chồng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho việc nuôi con chưa trưởng thành:

Theo pháp luật của Luật Hôn nhân mái ấm gia đình năm trước, cấp dưỡng được hiểu là việc một người có nghĩa vụ và trách nhiệm góp phần tiền hoặc gia tài khác để cung ứng nhu yếu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân gia đình, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà không có năng lực lao động và không có gia tài để tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn vất vả, túng thiếu. Bên cạnh đó, theo lao lý tại khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân mái ấm gia đình năm trước, sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ và trách nhiệm cấp dưỡng cho con.

Từ đó, có thể xác định nghĩa vụ cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn thuộc về người không trực tiếp nuôi con và nghĩa vụ cấp dưỡng này sẽ kéo dài đến khi người con đã thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình.

Quyền lưu cư khi ly hôn

Sau khi ly hôn, nếu có khó khăn vất vả trong việc tìm kiếm chổ ở mới thì người vợ hoàn toàn có thể lưu cư theo lao lý của Luật Hôn nhân và mái ấm gia đình, đơn cử: Theo Điều 63 Luật Hôn nhân và Gia đình năm trước pháp luật về quyền lưu cư sau khi ly hôn:

“ Điều 63. Quyền lưu cư của vợ hoặc chồng khi ly hôn Nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng đã đưa vào sử dụng chung thì khi ly hôn vẫn thuộc sở hữu riêng của người đó; trường hợp vợ hoặc chồng có khó khăn vất vả về chỗ ở thì được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân gia đình chấm hết, trừ trường hợp những bên có thỏa thuận hợp tác khác. ”

Theo lao lý trên, khu vực lưu cư là nhà ở thuộc chiếm hữu của một bên vợ hoặc chồng. Thông thường thời hạn lưu cư là 06 tháng, nhưng hai bên có thỏa thuận hợp tác khác về thời hạn lưu cư. Thời gian lưu cư cũng cần được Tòa án ghi nhận trong bản án để tránh trường hợp lưu cư quá ngắn hoặc quá dài tác động ảnh hưởng đến quyền lợi của vợ hoặc chồng.

Trên đây là những chia sẻ của Luật Nguyễn Hưng về “4 quyền lợi của người phụ nữ được hưởng khi ly hôn”. Nếu còn bất cứ vấn đề gì thắc mắc bạn có thể liên hệ trực tiếp với chúng tôi qua số điện thoại (028) 6650 6738 – (028) 6650 8738 để nhận được sự tư vấn hỗ trợ.

phone-call

GỌI HỎI ĐÁP MIỄN PHÍ

Scroll to Top