LY HÔN ĐƠN PHƯƠNG MÀ KHÔNG BIẾT NƠI CƯ TRÚ CỦA BỊ ĐƠN

Tình huống pháp lý:

Ngày 22/7, chị Oanh thường trú tại Q. 10 Thành phố Hồ Chí Minh đến Văn phòng luật sư Quang Thái nhờ tư vấn trường hợp ly hôn đơn phương của em gái mình. Theo đó chị Hồng – em gái chị Oanh tạm trú tại Dĩ An – Tỉnh Bình Dương kết hôn năm 2000, đến nay đời sống hôn nhân gia đình giữa chị và chồng luôn xảy ra xích míc và không tìm được tiếng nói chung, đồng thời anh có quan hệ ngoại tình với cô gái khác và hiện hai người đã có con. Nay chị Hồng muốn đơn phương ly hôn và nhờ Văn phòng tư vấn thủ tục pháp lý. Tuy nhiên, do chồng đã bỏ đi nay 2 năm nên chị Hồng lại không biết địa chỉ lúc bấy giờ chồng đang cư trú. Điều này dẫn đến hệ quả gây không ít khó khăn vất vả về thời hạn và thủ tục ly hôn cho chị Hồng.

Đánh giá tình huống pháp lý:

Kết hôn là việc nam nữ xác định mối quan hệ vợ chồng với nhau theo qui định pháp luật,  là khởi nguồn cho cuộc sống mới trong đời sống hôn nhân gia đình, cùng nhau hướng tới mục tiêu chung là xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc. Nhưng khi mục đích hôn nhân không đạt được, các nguyên tắc hôn nhân bị vi phạm và hai bên không thể duy trì đời sống vợ chồng thì ly hôn là giải pháp cuối cùng cho cả hai. Hiện nay, theo qui định tại khoản 1 điều 51 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 “ vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn”. Như vậy hiện nay có hai hình thức ly hôn là thuận tình ly hôn và đơn phương ly hôn. Đơn phương ly hôn là trường hợp chỉ một trong hai bên có nguyện vọng ly hôn, hoặc cả hai có nguyện vọng ly hôn nhưng có tranh chấp với nhau về tài sản và/hoặc con cái.

Để được ly hôn đơn phương thì việc Tòa án thụ lý đơn ly hôn là bước tiền đề đầu tiên. Theo qui định tại điều 35 Luật Tố tụng dân sự “ Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định như sau: a) Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc nếu bị đon là cá nhân …..có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình…”.

Vậy, Tòa án có thẩm quyền trong ly hôn đơn phương (không có YTNN) là Tòa cấp huyện nơi cư trú của bị đơn. Nhưng qui định này chỉ áp dụng được khi nguyên đơn biết địa chỉ cư trú của bị đơn. Trong tình huống pháp lý đưa ra cũng như trên thực tế không phải lúc nào nguyên đơn cũng biết địa chỉ cư trú của bị đơn mà khi trong cuộc sống hôn nhân có mâu thuẫn, tranh chấp nên vợ chồng không còn chung sống với nhau do đó một trong hai bỏ nơi cư trú hiện tại mà đi làm ăn, lập nghiệp ở nơi khác và không có thông tin liên lạc với gia đình. Do đó khi người còn lại muốn ly  hôn thì lại không có địa chỉ cư trú nên không thể tiên hành thủ tục  nộp đơn tại Tòa án có thẩm quyền theo qui định tại khoản 1 điều 35 Luật Tố tụng dân sự.

Đề xuất hướng giải quyết.

Để cung ứng nguyện được ly hôn trong trường hợp trên, qua khám phá những văn bản pháp lý nên theo tôi cách xử lý trong trường hợp này như sau:

Nộp đơn tại Tòa án cấp huyện nơi bị đơn có nơi ở, làm việc cuối cùng.

Theo qui định tại điều 36 Luật Tố tụng dân sự:

“ Điều 36: Thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu:

Nguyên đơn có quyền lựa chọn tòa án giải quyết tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động trong các trường hợp sau:

a) Nếu không biết nơi cư trú, làm việc trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi bị đơn cư trú làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản để giải quyết”.

Như vậy, trong trường hợp không xác định được chỗ ở hiện tại của bị đơn nên không thể nợp đơn tại Tòa nơi bị đơn đang cư trú thì nguyên đơn có thể nộp đơn ly hôn tại Tòa án nơi bị đơn cư trú hoặc làm việc cuối cùng. Nhưng khi thực hiện theo cách thức này  sẽ phát sinh những khó khăn nhất định đó là việc phải tiến hành rất nhiều thủ tục để chứng minh được nơi cư trú cuối cùng của bị đơn. Cụ thể:

– Theo qui định tại điều 79 luật Tố tụng dân sự về nghĩa vụ và trách nhiệm phân phối chứng cứ thì nguyên đơn phải có cung ứng chứng cứ để chứng tỏ được nơi cư trú sau cuối của bị đơn. Muốn làm được phải tới những cơ quan nhà nước và cơ quan thao tác sau cuối để xác lập được nơi cư trú sau cuối của bị đơn. Để cơ quan xác nhận nơi cư trú ở đầu cuối nguyên đơn phải có bằng

– Chứng chứng minh nơi cư trú theo qui định tại điều 52 Bộ luật Dân sự

  1. Nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống;
  2. Trường hợp không xác định được nơi cư trú của cá nhân theo qui định tại khoản 1 điều này thì nơi cư trú là nơi người đó đang sinh sống”.

– Nếu ly hôn đơn phương có tranh chấp về gia tài thì hoàn toàn có thể nộp đơn tại tòa án nhân dân nơi bị đơn có tái ản để xử lý. Cần đưa chứng cứ chứng tỏ được tại gia tài nơi tòa thụ lý là gia tài của bị đơn ( gia tài này hoàn toàn có thể là gia tài riêng của bị đơn hoặc là gia tài chung của bị đơn với người khác kể cả nguyên đơn ).

Nếu triển khai theo thủ tục này thì nguyên đơn phải mất rất nhiều thời hạn và sức lực lao động cho việc cugn cấp chứng cứ để chứng tỏ. Bên cạnh đó, còn những khó khăn vất vả phát sinh trong quy trình xử lý vụ án như: cấp, tống đạt hoặc thông tin văn bản tố tụng.

Nguyên đơn tiến hành các thủ tục tại Tòa án về yêu cầu tuyên bố một người mất tích để xin ly hôn.

Theo qui định tại khoản 2 điều 56 luật hôn nhân gia đình mái ấm gia đình qui định:

“ Điều 56: Ly hôn theo yêu cầu của một bên:

…2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn”.

Như vậy, nếu nguyên đơn không đủ khả năng cung cấp chứng cứ và không có tin tức gì về bị đơn thì có thể ly hôn đơn phương thông qua việc yêu cầu tòa án tuyên bố bị đơn mất tích theo điều 78 Bộ luật dân sự để yêu cầu tòa án tuyên bố bị đơn mất tích. Cụ thể:

“ Điều 78: Tuyên bố một người mất tích:

  1. Khi một người biệt tích hai năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo qui định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền và lợi liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích. Thời hạn hai năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng của người đó;  nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo có tin tức cuối cùng.
  2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích xin ly hôn thì tòa án giải quyết cho ly hôn”.

Vậy, nguyên đơn phải mất nhiều thời hạn để thực thi nguyện vọng ly hôn của mình. Muốn triển khai theo cách này nguyên đơn cần phải có yếu tố rất đầy đủ là thời hạn ( 2 năm ), đồng thời phải bảo vệ trong thời hạn này không có tin tức của bị đơn. Song song đó phải triển khai nộp đơn lên Tòa nhu yếu Tòa công bố bị đơn mất tích.

Sau khi có quyết định hành động Tuyên bố mất tích của Tòa, thì nộp đơn lên tòa nhu yếu ly hôn. Khi đó Tòa sẽ ra quyết định hành động ly hôn. Khi triển khai ly hôn theo cách này sẽ mất nhiều thời hạn và sức lực lao động. Bện cạnh đó, có trường hợp khi thời hạn chưa tới 2 năm mà có thông tin của bị đơn như: bị đơn trở lại, liên lạc về nhà, người thân trong gia đình nên địa thế căn cứ để công bố mất tích sẽ không còn.

phone-call

GỌI HỎI ĐÁP MIỄN PHÍ

Scroll to Top