Công chức là công bộc của nhân dân, công chức chịu sự giám sát của nhân dân và có thể bị thay thế nếu họ tỏ ra không đủ năng lực thực hiện công việc được giao và đặc biệt có những hành vi vi phạm kỉ luật nhà nước, kỉ luật lao động, có biểu hiện quan liêu, cửa quyền, vi phạm pháp luật,.v.v.
Hiện nay một số bộ phận cán bộ, công chức thoái hóa biến chất về đạo đức lối sống, lợi dụng chức quyền để tham ô, buôn lậu, phạm pháp, làm giàu bất chính, quan liêu, lãng phí của công,… pháp luật nhà nước ta đã quy định công chức phải chịu trách nhiệm kỉ luật trong mọi trường hợp vi phạm pháp luật.
Qua bài phân tích sau đây tổng đài tư vấn Luật Quang Huy chúng tôi xin giải quyết về vấn đề: “Phân tích trách nhiệm kỉ luật công chức và đánh giá việc truy cứu trách nhiệm kỉ luật công chức trên thực tế”.
Danh sách tài liệu tham khảo
- Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Trường Đại học luật Hà Nội.
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về trách nhiệm pháp lý của Nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức, cơ quan Nhà nước ở Việt Nam, Nxb. CTGQ – Sự thật, Hà Nội, 2014.
- Luật cán bộ, công chức năm 2008.
- Nghị định số 34/2011/NĐ-CP về Quy định về xử lý kỷ luật đối với công chức.
Phân tích trách nhiệm kỷ luật của công chức
Khái niệm trách nhiệm kỉ luật công chức
Theo từ điển Pháp – Việt pháp luật hành chính, kỷ luật là hình thức trừng phạt thuộc quyền của một số cơ quan, chính quyền và nhà chức trách hành chính đối với nhân viên dưới quyền mình, khi người đó vi phạm quy chế, kỷ luật công tác, hoặc vi phạm những khuyết điểm mang lại những hậu quả xấu cho cơ quan, công vụ.
Trách nhiệm kỉ luật của công chức là một loại trách nhiệm pháp lí do cơ quan, đơn vị có thẩm quyền áp dụng đối với những công chức có hành vi các quy định về nghĩa vụ đạo đức và văn hóa giao tiếp; vi phạm các quy định về những việc công chức không được làm và vi phạm pháp luật bị tòa án tuyên là có tội hoặc bị cơ quan có thẩm quyền kết luận bằng văn bản về hành vi vi phạm pháp luật.
Đặc điểm của trách nhiệm kỉ luật công chức.
Trách nhiệm kỉ luật công chức có những đặc điểm sau:
Trách nhiệm kỉ luật công chức được đặt ra khi công chức vi phạm pháp luật liên quan tới việc thực thi công vụ hay có ảnh hưởng xấu đến công vụ. Là một dạng trách nhiệm pháp lý cụ thể nên trách nhiệm kỷ luật được đặt ra khi có vi phạm pháp luật, tuy nhiên chỉ có những hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến việc thực thi công vụ hoặc gây ảnh hưởng xấu tới công vụ mới dẫn đến vi phạm kỷ luật. Ví dụ như có thái độ hách dịch, cửa quyền, gây khó khăn, phiền hà với tổ chức, cá nhân,…
Trách nhiệm kỷ luật là trách nhiệm pháp lý của công chức trước Nhà nước. Do trách nhiệm kỷ luật gắn liền với việc thực thi công vụ, nhiệm vụ mà nhà nước giao cho công chức nên trách nhiệm kỉ luật công chức là trách nhiệm trước nhà nước chứ không phải là của các bên có liên quan.
Trách nhiệm kỷ luật được truy cứu bới các bên có thẩm quyền. Truy cứu trách nhiệm kỷ luật là hoạt động sử dụng quyền lực nhà nước nên hoạt động này phải được thực hiện bởi người có thẩm quyền.
Trách nhiệm kỷ luật được truy cứu theo những nguyên tắc, thủ tục luật định. Để đảm bảo xử lý đúng người, đúng tội cũng như đảm bảo tính răn đe của các biện pháp xử lý kỉ luật, hoạt động truy cứu trách nhiệm kỷ luật phải tuân theo những nguyên tắc, thủ tục pháp luật quy định.
Các nguyên tắc xử lý kỉ luật.
Các nguyên tắc xử lý kỉ luật công chức được quy định tại Điều 2 Nghị định 34/2011/NĐ-CP của Chính phủ quy định về xử lý kỉ luật đối với công chức:
Phải khách quan, công bằng, nghiêm minh, đúng pháp luật. Đây là nguyên tắc chung cho mọi hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lý. Bởi bất cứ hoạt động truy cứu trách nhiệm nào cũng cần đến nguyên tắc trên để xử lý chính xác, không bỏ qua người có tội nhưng cũng không vu oan cho người vô tội.
Chỉ áp dụng một hình thức kỷ luật đối với một công chức trong một lần xử lý kỷ luật. Nếu công chức có nhiều hành vi vi phạm pháp luật thì bị xử lý kỷ luật về từng hành vi vi phạm và chịu hình thức kỷ luật nặng hơn một mức so với hình thức kỷ luật áp dụng đối với hành vi nặng nhất, trừ trường hợp có hành vi vi phạm phải xử lý kỷ luật bằng hình thức thôi việc.
Áp dụng hình thức kỷ luật nặng hơn nếu vi phạm pháp luật trong thời gian đang thi hành quyết định kỷ luật. Trong thời gian thi hành quyết định kỷ luật mà công chức còn vi phạm pháp luật chứng tỏ công chức đó không ăn năn, hối cải nên việc tăng mức độ nghiêm khắc của hình thức kỷ luật là cần thiết.
Không áp dụng hình thức xử phạt hành chính thay cho hình thức xử lý kỷ luật. Trách nhiệm kỷ luật của công chức được đặt ra khi công chức vi phạm pháp luật liên quan tới việc thực thi công vụ hay có ảnh hưởng xấu đến công vụ, nếu áp dụng hình thức xử phạt hành chính thay cho hình thức kỷ luật thì sẽ không đủ tính răn đe, nghiêm khắc.
Cấm mọi hành vi xâm phạm, thân thể, danh dự, nhân phẩm của công chức trong quá trình kỷ luật. Dù là đã có hành vi vi phạm pháp luật thì công chức vẫn là một con ngươi nên cũng được hưởng những quyền cơ bản của con người đã được ghi nhận trong Hiến pháp 2013: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm. Vì vậy, việc thực hiện hành vi xâm phạm, thân thể, danh dự, nhân phẩm của công chức trong quá trình kỷ luật là không được phép.
Thủ tục xử lý kỉ luật.
Xét theo Nghị định số 34/2011/NĐ-CP về Quy định về xử lý kỷ luật đối với công chức ban hành ngày 17 tháng 5 năm 2011 . Trong chương IV về “Thẩm quyền xử lý kỷ luật, trình tự , thủ tục xem xét xử lý kỉ luật công chức” ta có thể thấy thủ tục xử lý bao gồm các bước như sau:
Xem xét thẩm quyền xử lý kỷ luật. Đối với mỗi một đối tượng trong cơ quan thì đều có những người có thẩm quyền xử lý khác nhau. Ví dụ như trong khoản 1 Điều 15 của Nghị định ta thấy : “Đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền bổ nhiệm tiến hành xử lý kỷ luật và quyết định hình thức kỷ luật.”
Tổ chức họp kiểm điểm công chức có hành vi vi phạm pháp luật. Sau khi xác định người có thẩm quyền, người đó sẽ tiến hành tổ chức họp kiểm điểm đối với cá nhân vi phạm. Cuộc họp đó sẽ được diễn ra theo một trình tự nhất định (Điều 16 Nghị định).
Thành lập hội đồng kỷ luật. Theo Điều 17 Nghị định thì “Người có thẩm quyền xử lý kỷ luật quy định tại Điều 15 Nghị định này quyết định thành lập Hội đồng kỷ luật để tư vấn về việc áp dụng hình thức kỷ luật đối với công chức có hành vi vi phạm pháp luật” . Hội đồng kỷ luật sẽ được thành lập sẽ được lập ra dựa trên ĐIều 18 của nghị định. Sau khi giải quyết hết các thủ tục xử lý thì hội đồng này sẽ tự giải tán.
Tổ chức họp hội đồng kỷ luật: Buổi họp này để thống nhất và đưa ra quyết định lỷ luật đối với công chức. Tùy mức độ nặng nhẹ mà đưa ra các mức kỷ luật khác nhau. Trong buổi họp các thành viên hội đồng kỷ luật sẽ thảo luận mà đưa ra mức kỷ luật nặng hay giảm nhẹ cho công chức.
Khiếu nại.( Nếu có) Công chức hoàn toàn có quyền khiếu nại về quyết định kỷ luật nếu thấy không thỏa đáng. Quyền này của công chức được áp dụng theo luật khiếu nại của pháp luật .
Đánh giá việc xử lý kỉ luật công chức trên thực tế.
Thực trạng việc đánh giá kỉ luật công chức trên thực tế.
Ở Việt Nam hiện nay, chúng ta đã có luật riêng quy định về các vấn đề công chức trong đó có kỉ luật công chức. Nhìn chung công tác truy cứu trách nhiệm kỷ luật, xử lý kỉ luật công chức được thực hiện tương đối tốt bởi lẽ chất lượng cũng như đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp của công chức ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên công tác truy cứu trách nhiệm kỷ luật tại nước ta ngày này chưa thực sự hiệu quả và công minh. Thực tế cho thấy việc công chức nhà nước vi phạm kỉ luật, có ý thức trách nhiệm kém ( thể hiện qua nhiều dấu hiệu: trì trệ, tắc trách, làm trái quy định, sai thủ tục, đùn đẩy, nhận hối lộ, tham nhũng) không phải hiếm nhưng hoạt động truy cứu trách nhiệm và xử lý kỉ luật những đối tượng này lại vô cùng hiếm, ít về số lượng, kém về “chất lượng”.
Có thể thấy trong hoạt động xử lý kỉ luật công chức vẫn còn có nhiều điểm yếu như sự nể nang trong hoạt động xử lí, nhiều hoạt động vẫn còn mang tính tình thức, chưa thực sự có tính răn đe cao.
Đặc biệt, việc báo cáo tình hình công chức vi phạm kỷ luật và tình hình truy cứu trách nhiệm vẫn chưa thực sự hiệu quả, minh bạch. Hàng năm Chính phủ báo cáo lên cơ quan quyền lực nhà nước là Quốc hội chỉ có 1% công chức nhà nước không thực hiện tốt nhiệm vụ bị truy cứu và xử lý kỉ luật. Tuy nhiên, trên thực tế có rất nhiều công chức nhà nước sáng cắp ô tô đi, tối cắp ô tô về, hay có nhiều công chức đi ăn sáng, uống cà phê ngay trong giờ hành chính mà không hề bị xử lý.
Một số nguyên nhân khiến việc truy cứu trách nhiệm kỷ luật còn chưa hiệu quả
Việc triển khai các Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong các cơ quan đơn vị chưa thực sự quyết liệt và sâu sắc, bao gồm cả việc tuyên truyền giáo dục pháp luật.
Do sự tác động của cơ chế thị trường: sự nể nang của cơ quan đối với người vi phạm vì không dám đấu tranh bảo vệ lẽ phải bởi người vi phạm có chức vụ, quyền và vị thế cao trong xã hội như việc quan chức gây tai nạn rồi nhờ quyền thế đánh chìm sự việc.
Cơ quan quản lí không truy cứu để bao che cho công chức thuộc ngành của cơ quan, đơn vị đó tránh sự ảnh hưởng tới ngành của mình bởi hậu quả của việc truy cứu trách nhiệm kỷ luật đối với những vi phạm là rất tiêu cực.
Một số quy định pháp luật về việc xử lý kỉ luật công chức vẫn còn hạn chế. Ví dụ như Về hình thức kỷ luật giáng chức đối với công chức theo Luật cán bộ, công chức năm 2008, thì điều này cũng cần phải làm rõ hơn trong các văn bản hướng dẫn. Luật Cán bộ, công chức năm 2008 giải thích: “Giáng chức là việc công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý bị hạ xuống chức vụ thấp hơn”.
Với quy định này Luật chưa trù liệu hết các hệ quả pháp lý đối với trường hợp giáng chức. Trường hợp công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý bị giáng chức sẽ bị hạ xuống mấy cấp chức vụ? Và, nếu công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý nhưng chỉ là cấp phó thì giáng chức đến chức vụ nào? Ví dụ, giáng chức phó trưởng phòng một phòng thuộc sở thì có thể xuống chức vụ trưởng phòng thuộc UBND cấp huyện được không?
Một số giải pháp để việc truy cứu trách nhiệm kỉ luật công chức hiệu quả hơn trên thực tế
Hoàn thiện các quy chế về trách nhiệm kỉ luật công chức, trong đó quy định rõ các trường hợp phải xử lý kỉ luật, nêu rõ điều kiện áp dụng với mỗi chế tài xử lí kỉ luật, hình thức kỷ luật phù hợp với hành vi vi phạm. Đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong quá trình xử lý.
Nâng cao năng lực, trình độ và kiến thức cho những người quản lí, những người có thẩm quyền xử lý kỉ luật. Đây là những người trực tiếp đưa ra những quyết định xử lý đối với những công chức vi phạm kỉ luật, vì vậy để đảm bảo tính chính xác trong hoạt động truy cứu trách nhiệm kỷ luật, đòi hỏi những người này phải có đủ trình độ chuyên môn cũng như phẩm chất đạo đức.
Tăng cường giáo dục về pháp luật, nâng cao ý thức của công chức. Những quy định của pháp luật về công chức chỉ có thể đi vào thực tiễn khi công chức thực sự hiểu và chấp hành nghiêm chỉnh, vì vậy, công tác tuyên truyền, phổ biến và nâng cao ý thức pháp luật là một việc vô cùng quan trọng.
Thứ tư, nâng cao vai trò giám sát việc truy cứu trách nhiệm kỉ luật công chức của Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và sự giám sát trực tiếp của nhân dân. Nhân dân chính là lực lượng đông đảo, công minh nhất trong việc giám sát các hoạt động truy cứu trách nhiệm kỉ luật. Do đó, hoàn thiện các quy định về việc được tiếp nhận thông tin của nhân dân, để nhân dân có quyền biết, giám sát, tránh tình trạng truy cứu trách nhiệm kỷ luật chưa nghiêm túc của các cơ quan cấp trên.
Qua mỗi giai đoạn phát triển của Nhà nước, quy chế pháp lí hành chính của cán bộ, công chức ngày càng được bổ sung và hoàn thiện, thể hiện đường lối cán bộ đúng đắn và sự quan tâm của Nhà nước đối với đội ngũ cán bộ công chức.
Trên đây là phần giải đáp thắc mắc của chúng tôi về vấn đề: Kỉ luật công chức và đánh giá việc truy cứu trách nhiệm kỉ luật công chức. Nếu trong quá trình giải quyết còn gì thắc mắc bạn có thể liên hệ chúng tôi qua tổng đài tư vấn luật qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy để được giải đáp.
Trân trọng./.