Một số vấn đề lý luận của tội phạm tham nhũng

      Có thể nói, tham nhũng là vấn đề toàn cầu. Các quốc gia công nghiệp hoá tất nhiên không hề miễn dịch trước tham nhũng và tất cả đều có trách nhiệm tham gia vào việc tìm ra giải pháp. Tuy nhiên, tham nhũng dường như xâm hại với tỷ lệ cao hơn ở các nước đang phát triển và nền kinh tế đang chuyển đổi. Tham nhũng ngăn cản nhiều nước vượt qua những thách thức nghiêm trọng nhất của phát triển, cản trở đầu tư trong nước và nước ngoài, làm xói mòn niềm tin trong các tổ chức công cộng,  niềm tin của nhân dân đối với Chính phủ, và làm tồi tệ thêm vấn đề ngân sách bằng cách lấy đôi của Chính phủ các khoản thuế quan và thuế thu nhập đáng kể.

      Mặc dù tội phạm tham nhũng là một loại tội phạm nguy hiểm và có tính chất truyền thống nhưng việc nghiên cứu và tìm ra các biện pháp phòng chống loại tội phạm này luôn là một vấn đề bức xúc đối với mọi nền kinh tế trên thế giới và đối với sự phát triển của nền Việt Nam nói riêng. Đó là một nhiệm vụ cấp thiết đang đặt ra cho các nhà luật học nói chung và người nghiêm cứu khoa học luật hình sự nói riêng.

      Dù vẫn đang là sinh viên nhưng thông qua các phương tiện thông tin đại chúng cũng như trong thực tế đời sống xã hội, tôi cảm thấy rất quan tâm và bức xúc về vấn đề tội phạm tham nhũng hiện nay. Tôi đã tiến hành nghiên cứu trên sách báo, internet và thực tế để hoàn thành báo cáo khoa học này. Trong phạm vi Luật Quang Huy đề cập về vấn đề này trên một số khía cạnh như sau: “Một số vấn đề lý luận của tội phạm tham nhũng”.


Cơ sở pháp lý

  • Bộ luật Hình sự nước CHXHCN Việt Nam 1999

Khái niệm tham nhũng

      Tham nhũng là một hiện tượng xã hội tiêu cực xuất hiện cùng với sự phát triển của Nhà nước, nó là biểu hiện của sự tha hoá của một bộ phận các quan chức được giao cho các quyền về chính trị – kinh tế – văn hoá – xã hội. Do vậy hiện tượng tiêu cực này được đề cập, nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau ở nhiều lĩnh vực khác nhau: chính trị – pháp lý – kinh tế -xã hội… Mỗi ngành khoa học đều có cách hiểu và tiếp cận riêng về quốc nạ này nhưng tất cả đều nhắm đến một mục đíhc chung là nhận diện tham nhũng để từ đó tìm ra những giải pháp khả thi để có thể ngăn chặn, khắc phục và giảm thiểu đến mức thấp nhất hiện tượng này.

      Nhìn từ góc độ xã hôi, tham nhũng phải được đánh giá là một hiện tượng xã hội chứ không phải là hiện tượng nhất thời của một người hay một nhóm  người nhất định trong xã hội. Trạng thái, hình thức và mức độ của tệ tham nhũng phụ thuộc vào những thay đổi đang diễn ra trong xã hội, xã hội càng hiện đại thì tệ nạn này càng có môi trường phát triển, mức độ nguy hiểm cho xã hội sẽ cao hơn và thu đoạn phạm tội cũng ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn.

Một số vấn đề lý luận của tội phạm tham nhũng

      Dưới góc độ chính trị, tham nhũng thể hiện sự tha hoá của một bộ phận không nhỏ các cán bộ công chức Nhà nước mà biểu hiện rõ nhất của nó  là tình trạng quan liêu, mua bán chức quyền để vụ lợi.

      Còn từ góc độ kinh tế thì tham nhũng không chỉ gây ra thiệt hại, thất thoát tài sản của Nhà nước của nhân dân mà nó còn phá hoại cản trở các giải pháp kinh tế xã hội, kìm hãm sự phát triển kinh tế.

      Dưới góc độ pháp luật hình sự thì tham nhũng là hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm. Các hành vi này do chủ thể đặc biệt (người có chức vụ, quyền hạn) thực hiện với lỗi cố ý, động cơ và mục đích phạm tội là vì vụ lợi cá nhân, có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp đến lợi ích vật chất xâm phạm vào các quan hệ xã hội được pháp luạt bảo vệ.

      Hiện nay ở Việt Nam khái niệm về tham nhũng đang là một vấn đề gây tranh luận, ở đây chỉ xin đề cập đến một số quan điểm sau:

      Theo “Từ điển Tiếng Việt” thì “Tham nhũng là lợi dụng quyền hạn để nhũng nhiễu dân và lấy của”

      Theo Pháp lệnh chống tham nhũng có hiệu lực từ 1/5/1998 thì “tham nhũng là hành vi của người có chức vụ quyền hạn đã lợi dụng chức vụ quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi gây thiệt hại cho tài sản Nhà nước, của tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức”.

      Như vậy, có khá nhiều khái niệm khác nhau để giải thích tệ nạn xã hội nguy hiểm này, nhưng nhìn chung đều cho chúng ta thấy một cách hiểu về bản chất của tham nhũng, rằng đó chính là hiện tượng xã hội, tiêu cực được thể hiện bằng những hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi cho cá nhân hoặc cho người khác dưới bất cứ hình thức nào, gây thiệt hại cho tài sản của tập thể, của công dân hoặc gây thiệt hại cho hoạt động đúng đắn của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội hoặc quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.


Khái niệm tội phạm tham nhũng

      Cho tới nay, tham nhũng  một hiện tượng xã hội tiêu cực đã trở thành một quốc nạn của toàn xã hội, nó gây tác động tiêu cực, không nhỏ đối với xã hội, gây trong lòng dân làn sóng bất bình, nó là biểu hiện của sự suy thoái đạo đức, vi phạm pháp luật… khi mà những hành vi tham nhũng đó gây ra thiệt hại đáng kể cho xã hội đủ các dấu hiệu để cấu thành tội phạm thì phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Theo Bộ luật Hình sự 1999 thì loại tội phậm này được quy định ở Mục A – Chương XXI, bao gồm các tội sau:

      Tội tham ô tài sản (Điều 278)

      Tội nhận hối lộ (Điều 279)

      Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản (Điều 280)

      Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 281)

      Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 282)

      Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi (Điều 283)

      Tội giả mạo trong công tác (Điều 284)

      Muốn đưa ra được khái niệm về tội tham nhũng, trước hết chúng ta phải nắm được khái niệm tội phạm nói chung. Theo khoản 1 – Điều 8 – Bộ luật Hình sự quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ  của Tổ quốc; xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền  và lợi ích hợp pháp khác của công dân; xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”.

      Qua khái niệm về tội phạm nói chung và phần các tội phạm về tham nhũng được ghi nhận tại Mục A – Chương XXI có thể hiểu khái niệm về tội phạm tham nhũng như sau: “Các tội phạm về tham nhũng là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ quyền hạn của mình thực hiện trong khi thi hành công vụ một cách cố ý trực tiếp xâm phạm vào hoạt động đúng đắn và uy tín của cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nhằm trục lợi”.


Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm tham nhũng

       Khách thể của tội phạm tham nhũng

      Luật hình sự Việt Nam trên cơ sở thừa nhận tính giai cấp của pháp luật nói chung cũng như của Luật Hình sự nói riêng khẳng định: “Khách thể của tội phạm gây thiệt hại là hệ thống những quan hệ xã hội của chế đội có giai cấp được Luật Hình sự của chế độ đó bảo vệ”. Như vậy có thể hiểu khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại.

Một số vấn đề lý luận của tội phạm tham nhũng
Một số vấn đề lý luận của tội phạm tham nhũng

      Khách thể của tội phạm là một trong bốn yếu tố quan trọng cấu thành tội phạm, xác định đúng khách thể của tội phạm cũng đồng nghĩa với việc xác định được tính chất nguy hiểm  cho xã hội của hành vi phạm tội. Ở đây, khách thể của tội phạm tham nhũng là những hoạt động đúng đắn của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội; quyền và lợi ích hợp pháp của công nhân.

      Hoạt động đúng đắn của bộ máy Nhà nước, tổ chức xã hội là khái niệm rất chung để chỉ mỗi cơ quan tổ chức thực hiện đúng nhiệm vụ của mình của pháp luật quy định. Tuỳ theo nhiệm vụ của mỗi cơ quan, tổ chức được Nhà nước giao phó mà hoạt động đúng đắn đó thể hiện ở một lĩnh vực khác nhau. Để bảo vệ có hiệu quả hoạt động đúng đắn của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội Luật Hình sự chia chúng thành các nhóm quan hệ xã hội khác nhau, ví dụ: nhóm các tội xâm phạm sở hữu (Chương XIV – BLHS 1999), nhóm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp (Chương XXII – BLHS 1999), nhóm các tội phạm về chức vụ thì được quy định tại Chương XXI, trong đó các tội phạm về tham nhũng được quy định tại mục A.

      Tuy nhiên, khách thể của tội phạm tham nhũng còn bao gồm cả các quyền, lợi ích hợp pháp  của công dân và uy tín của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội.

      Mặt khách quan của tội phạm tham nhũng

      Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan mà con người có thể trực tiếp nhận biết được đó là:

      Hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội

      Hậu quả nguy hiểm cho xã hội

      Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả

      Các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội (Công cụ, phương tiên, phương pháp, thủ đoạn, thời gian  địa điểm phạm tội)

      Hành vi tham nhũng là một dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Nếu không có hành vi thực hiện tội phạm thì không có những dấu khác và cũng không có tội phạm. Hành vi ở đây có thể là hành động hoặc không hành động. Nhưng nó được gắn chặt với người có chức vụ quyền hạn và chỉ do người có chức vụ quyền hạn thực hiện trong khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước giao cho.

      Hành vi phạm tội qua hành động là sự tác động trái pháp luật, gây thiệt hại đáng kể cho hoạt động đúng đắn của các cơ qua Nhà nước  và tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được Luật Hình sự bảo vệ.

      Hành vi phạm tội không qua hành động là cách xử sự tiêu cực của người có chức vụ quyền hạn. Họ không thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao hoặc có thực hiện nhưng không đầy đủ nên đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho lợi ích Nhà nước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

      Dấu hiệu tiếp theo thuộc mặt khách quan của tội phạm tham nhũng là hậu quả của hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn của những người có chức vụ quyền hạn để phạm tội. Hậu quả  do tội tham nhũng gây ra có thể chia thành hai trường hợp:

  • Hậu quả vật chất: là sự hao hụt về tiền, hành hoá, vật tư… Thiệt hại này có thể được xác định bằng các đại lượng cụ thể, có thể nhìn thấy và tính toán được.
  • Hậu quả phi vật chất: là những thiệt hại không thể đo đếm, xác định được bằng các đại lượng cụ thể, đó là sự suy giảm lòng tin của nhân dân, mất uy tín với nhân dân của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội.

      Một dấu hiệu bắt buộc khác trong mặt khách quan của tội phạm tham nhũng cũng có cấu thành vật chất là mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội của người có chức  vụ quyền  hạn trong khi thi hành công vụ và hậu quả do tội phạm đó gây ra. Hành vi phạm tội phải là nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh hậu quả, người phạm tội chỉ chịu trách nhiệm về hành vi của mình khi xác định hậu quả xảy ra là hậu quả tất yếu phát sinh từ hành vi đó.

      Chủ thể của tội phạm tham nhũng

      Như chúng ta đã biết, chủ thể của tội phạm tham nhũng là một loại chủ thể đặc biệt, đòi hỏi đó phải là những  người có chức vụ, quyền hạn. Ở đây, ngoài hai dấu hiệu thông thường là độ tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự, bắt buộc phải có dấu hiệu  thứ ba là người có chức vụ, quyền hạn. Điều 277 – BLHS 1999 quy định: ” Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ”.

      Có thể thấy người có chức vụ quyền hạn có một só đặc điểm như sau:

     Là người được giữ chức vụ thường xuyên hoặc tạm thời trong cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội. Chức vụ này có thể do bổ nhiệm hoặc do bầu cử, hợp đồng hay hình thức khác (uỷ quyền, đại diện), có hưởng lương hoặc không hưởng lương của Nhà nước.

      Là người thực hiện một trong các chức năng: đại diện quyền lực Nhà nước, tổ chức điều hành quản lý hành chính; hoặc chức năng tổ chức sản xuất kinh doanh theo công vụ đã được giao cho họ.

      Là những người thực hiện trách nhiệm nhất định theo thẩm quyền chuyên môn mà họ đảm nhận.

      Mặt chủ quan của tội phạm tham nhũng

      Trong khoa học Luật Hình sự thì tội phạm là thể thống nhất của hai mặt khách quan và chủ quan. Mặt khách quan là những biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm. Vậy mặt chủ quan là: hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội và nó luôn được gắn liền với các biểu hiện bên ngoài của tội phạm. Nội dung của mặt chủ quan bao gồm: lỗi, động cơ và mục đích phạm tội.

      Trong các tội phạm tham nhũng, người có chức vụ quyền hạn đã nhận thức được tính chất nguy hiểm cho Nhà nước, cho xã hội, cho công dân của hành vi trái luật do mình gây ra và thấy trước được  hậu quả xảy ra. Khi người có chức vụ quyền hạn nhận thức được hành vi của mình là trái với công vụ được giao thể hiện người đó đã vì lợi ích của riêng mình chứ không hoạt động vì lợi ích chung, chỉ biết đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích tập thể, họ có thể làm bằng nhiều cách thức, con đường khác nhau cốt sao mang lại những lợi ích mà họ mong muốn. Như vậy, đương nhiên tội phạm tham nhũng luôn được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý trực tiếp, nhằm động cơ vụ lợi cá nhân.

      Hành vi phạm tội tham nhũng không chỉ gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước mà còn xâm phạm đến các hoạt động đúng đắn của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Bên cạnh đó, nó còn có tác động tiêu cực đối với  các giải pháp kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước. Đồng thời nó còn là yếu tố kìm hãm, ngăn cản sự phát triển kinh tế – chính trị của đất nước, đe doạ đến sự ổn định vững vàng của chế độ chính quyền cũng như độc lập an ninh của Tổ quốc.

      Nhận thức được những hậu quả của tội phạm tham nhũng gây ra chúng ta cần phải có những biện pháp hữu hiệu nhằm đấu tranh phòng chống vấn nạn này, làm trong sạch bộ máy chính quyền, lấy lại niềm tin trong nhân dân và một môi trường  phát triển lành mạnh cho kinh tế Việt Nam.


    Trên đây là phần giải đáp thắc mắc của chúng tôi về vấn đề: Một số vấn đề lý luận của tội phạm tham nhũng. Nếu trong quá trình giải quyết còn gì thắc mắc bạn có thể liên hệ chúng tôi qua Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy để được giải đáp.

      Trân trọng./.


 

phone-call

GỌI HỎI ĐÁP MIỄN PHÍ

Scroll to Top