Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về quyền và nghĩa vụ của người bị hại và việc hoàn thiện quy định này

Tố tụng hình sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật, tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Nhiệm vụ của luật tố tụng hình sự là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cùng với việc đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng hình sự trong đó có người bị hại. Người bị hại là những người bị xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp nặng nề nhất, là người bị chịu thiệt hại nhiều nhất trong số những người tham gia tố tụng. Do vậy, họ cần được bảo vệ kịp thời để tránh hậu quả ngày càng trở nên trầm trọng và nặng nề hơn. Thực tế do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan nên người bị hại mới bị xâm phạm quyền, trong quá trình thực hiện tố tụng vẫn chưa thực sự quan tâm đến người bị hại. Thực tế nguyên nhân là do chưa hiểu được người bị hại là gì, thiệt hại của họ như thế nào, họ cần được bảo vệ gì,… Và hiện nay, Bộ luật tố tụng hình sự còn quy định chưa đầy đủ, thiếu sót về quyền và nghĩa vụ của người bị hại cần được hoàn thiện nhanh chóng hiệu được điều đó em xin chọn đề bài số 2: “Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về quyền và nghĩa vụ của người bị hại và việc hoàn thiện quy định này”.


Danh mục tài liệu tham khảo:

  • Giáo trình Luật tố tụng Hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2014.
  • Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam năm 2003.
  • Người bị hại trong tố tụng hình sự, Tạp chí KHPL số 1(38)/2007, Lê Tiến Châu.
  • Quy định của Bộ luật tố tụng hình về quyền và nghĩa vụ của người bị hai, thực tiễn thi hành và hướng hoàn thiện

Nội dung

Khái niệm người bị hại

Quy định pháp luật Tố tụng hình sự (TTHS) của các nước không có sự thống nhất trong việc sử dụng thuật ngữ người bị hại. Chẳng hạn TTHS của nước ta, Liên bang Nga, Cộng hòa Pháp dùng thuật ngữ “người bị hại”, trong khi đó luật TTHS Cộng hòa Trung Hoa thì dùng thuật ngữ “người tố cáo”. Ngoài ra người bị hại còn được gọi là “người bị thiệt hại”, hay gọi là “nạn nhân”, hay “dân sự nguyên cáo”. Như vậy, thuật ngữ nào mới diễn tả đúng ý nghĩa và phù hợp?

Người bị hại là một khái niệm quen thuộc cả trong đời sống hàng ngày và trong cả khoa học pháp lý về TTHS. Nhưng thế nào là người bị hại, phạm vi người bị hại thì đến nay vẫn còn có quá nhiều quan điểm nhận thức khác nhau.

Người bị hại là người tham gia tố tụng có mặt hầu hết trong các vụ án hình sự. Theo từ điển luật học: “Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản do tội phạm gây ra. Người bị hại chỉ có thể là thể nhân bị thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản chứ không thể là pháp nhân”.

Dưới góc độ xã hội, người bị hại là con người cụ thể trong xã hội, chịu tác động tiêu cực của sự việc, hành vi hoặc bất kì tác động nào khác dẫn đến những thiệt thòi, mất mát hay tổn thương cho chính họ. Tất nhiên, sự tác động đó là trái ý muốn của người bị hại và họ tiếp nhận một cách thụ động. Thiệt hại gây ra cho người bị hại có thể là thiệt hại về vật chất, tinh thần, tài sản mà không giới hạn và không cần giới hạn thiệt hại.

Theo pháp luật thực định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật TTHS thì “Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra”. Với quy định này, người bị hại thường được hiểu là “con người cụ thể bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại. Thể chất, tinh thần, tài sản là đối tượng của tội phạm”. Mặc dù đây là các hiểu truyền thống về người bị hại chỉ là cá nhân hay gồm pháp nhân, tổ chức vẫn đang là vấn đề còn nhiều tranh luận.

Quan điểm cho rằng người bị hại chỉ có thể là cá nhân, con người cụ thể là xuất phát từ nhận thức rằng do luật quy định “người bị hại là người bị thiệt hại…” chứ không quy định “người bị hại là cá nhân, tổ chức bị thiệt hại…” giống như quan niệm chủ thể trong luật hình sự hay khái niệm về bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự … Quan niệm theo pháp luật thực định được thừa nhận rộng rãi.

Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về quyền và nghĩa vụ của người bị hại và việc hoàn thiện quy định này
Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về quyền và nghĩa vụ của người bị hại và việc hoàn thiện quy định này

Quan điểm khác cho rằng người bị hại không chỉ là cá nhân mà còn có thể là pháp nhân, tổ chức. Quan điểm này có điểm hợp lý bởi lẽ: về mặt hình thức, Bộ luật TTHS quy định “người bị hại là người bị thiệt hại …”song ở một khía cạnh khác có thể hiểu từ “người” theo nghĩa rộng bao gồm cả cá nhân, tổ chức, tương tự như trường hợp “người có quyền lợi và có nghĩa vụ liên quan”; về bản chất, xác định người bị hại không chỉ là cá nhân mà còn bao gồm cả pháp nhân, tổ chức sẽ đảm bảo công bằng cho tất cả các chủ thể trong trường hợp cùng ị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Với quan niệm người bị hại chỉ có thể là cá nhân như hiện nay, sẽ có trường hợp các chủ thể cùng bị thiệt hại về vật chất do hành vi phạm tội gây ra nhưng cá nhân bị thiệt hại được xác định là người bị hại còn pháp nhân bị thiệt hại lại xác định là nguyên đơn dân sự trong khi điều kiện tham gia tố tụng của hai chủ thể này khác nhau (nguyên đơn dân sự phải có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại), quyền của nguyên đơn trong tố tụng hạn chế hơn so với quyền của người bị hại (nguyên đơn dân sự không được quyền kháng cáo về hình phạt với bị cáo). Như thế thì một mặt không đảm bảo sự công bằng giữa các chủ thể cùng bị thiệt hại trực tiếp bởi hành vi phạm tội, mặt khác làm nảy sinh hàng loạt vấn đề khó giải quyết cả về góc lý luận và thực tiễn như: trường hợp pháp nhân, tổ chức bị thiệt hại mà tài sảnthuộc sở hữu nhà nước, nếu pháp nhân, tổ chức đó không có yêu cầu thì họ sẽ tham gia tố tụng với tư cách gì, tài sản nhà nước liệu có được bảo vệ hay không; pháp nhân bị thiệt hại trực tiếp về tài sản còn cá nhân bị thiệt hại gián tiếp do hành vi phạm tội gây ra đều được xác định là nguyên đơn dân sự đã thực sự hợp lý chưa; hoặc trường hợp, pháp nhân bị thiệt hại về thương hiệu, uy tín trong kinh doanh thì họ sẽ tham gia tố tụng với tư cách gì? Xuất phát từ những lý do trên, thiết nghĩ, Điều 51 cần được sửa đổi theo hướng làm rõ người bị hại để đảm bảo sự công bằng, bình đẳng trong tố tụng hình sự, bảo vệ tốt các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại.

Trong trường hợp người bị hại chết thì người đại diện hợp pháp của họ có những quyền của người bị hại. Nếu người bị hại đã chết có nhiều đại diện hợp pháp có quyền lợi đối lập nhau thì tòa án phải triệu tập tất cả những người đó để nghe họ trình bày ý kiến.

Nếu người bị hại chưa thành niên hoặc là người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì đại diện hợp pháp của họ sẽ cùng tham gia tố tụng.

Phân biệt nạn nhân với người bị hại: Nạn nhân của tội phạm là những cá nhân, tổ chức bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại, gây thiệt hại về thể chất, về tinh thần, tài sản hoặc các quyền, lợi ích hợp pháp khác” (Trần Hữu Tráng, Nạn nhân học trong Tội phạm học- một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sỹ Luật học 2000, trang 18). Thiệt hại không chỉ dừng ở thiệt hại vật chất và tinh thần mà còn thiệt hại về các lợi ích khác. Nạn nhân có những đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, nạn nhân của tội phạm là cá nhân, tổ chức. Khác với chủ thể của tội phạm chỉ có thể là cá nhân, nạn nhân của tội phạm có thể là cá nhân, có thể là tổ chức. Các cá nhân, tổ chức này tồn tại và hoạt động trong xã hội được Nhà nước bảo vệ: “Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lí theo pháp luật“. Là nạn nhân của tội phạm, cá nhân, tổ chức phải tồn tại vào thời điểm hành vi phạm tội xảy ra. Bởi vì, chỉ khi đó, hành vi phạm tội mới có thể gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức này.

Cá nhân là nạn nhân của tội phạm có thể là công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không có quốc tịch. Đối với cá nhân, thời gian có thể bị hành vi phạm tội xâm hại bắt đầu từ khi cá nhân đó sinh ra còn sống và kết thúc khi người đó chết đi. Trước thời điểm sinh ra, người đó chưa tồn tại về mặt pháp lí, do đó, hành vi phạm tội chưa thể xâm hại đến người đó được. Ngược lại, khi người đó chết đi thì sẽ chấm dứt sự tồn tại của mình cả về mặt thực tế lẫn mặt pháp lí (khai tử). Khi đó, tất cả những hành vi xâm hại đến thi thể, hài cốt, mồ mả của họ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt (Điều 246 BLHS). Những trường hợp này không thể coi thi thể, hài cốt người chết là nạn nhân của tội phạm.

Tổ chức là nạn nhân của tội phạm phải là những tổ chức được thành lập hợp pháp (được Nhà nước thành lập hoặc cho phép thành lập). Pháp luật chỉ bảo vệ quyền lợi của những tổ chức hợp pháp. Những tổ chức bất hợp pháp sẽ không có địa vị pháp lí, không được tồn tại trong xã hội và do đó không thể là nạn nhân của tội phạm. Những tổ chức hợp pháp là nạn nhân của tội phạm phải là những tổ chức còn tồn tại vào thời điểm xảy ra tội phạm. Những tổ chức thành lập sau thời điểm hành vi phạm tội xảy ra hoặc các tổ chức đã giải thể trước khi hành vi phạm tội xảy ra thì không thể là nạn nhân của tội phạm.

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tổ chức đặc biệt, do đó, trong một số trường hợp, với tư cách là chủ sở hữu một số tài sản, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng có thể trở thành nạn nhân của một số tội xâm phạm tài sản như các tội phá hoại cơ sở vật chất – kĩ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 85 BLHS), tội tham ô tài sản (Điều 278 BLHS).

Thứ hai, nạn nhân của tội phạm là cá nhân, tổ chức bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc các quyền, lợi ích hợp pháp khác. Thiệt hại về thể chất là thiệt hại do các hành vi phạm tội gây ra cho tính mạng, sức khỏe của con người. Thiệt hại về tinh thần là các thiệt hại do hành vi tội phạm gây ra xúc phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự của con người. Thiệt hại về vật chất là thiệt hại mà tội phạm gây ra cho tài sản của nạn nhân như tài sản bị chiếm đoạt, bị hủy hoại, bị chiếm dụng…, thiệt hại về quyền, lợi ích hợp pháp khác là thiệt hại xâm hại đến việc thực hiện các quyền và lợi ích cơ bản của công dân theo quy định của pháp luật.

Phân biệt người bị hại với đối tượng tác động của tội phạm. Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận khách thể bị hành vi phạm pháp luật hình sự tác động đến, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại. Đối tượng tác động không chỉ là con người mà còn là vật chất hoặc hành vi chuẩn mực của con người.

Đặc điểm của người bị hại:

Về chủ thể: phải là con người cụ thể chứ không phải là một pháp nhân hay cơ quan, tổ chức. Thiệt hại do tội phạm gây ra có thể là thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần nhưng phải là một thiệt hại thực tế có thể xác định được. Thiệt hại của người bị hại phải là đối tượng tác động của tội phạm, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả thiệt hại. Tư cách người bị hại khởi sinh khi tham gia vào quá trình tố tụng hình sự và được cơ quan tố tụng hình sự công nhận.


Quyền và nghĩa vụ của người bị hại theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003

Như đã biết, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của người bị hại, đó có thể là những thiệt hại vô cùng lớn mà người bị hại phải gánh chịu, vì vậy Nhà nước cần phải có biện pháp cụ thể để bảo vệ người bị hại, khôi phục lại trạng thái ban đầu hoặc kịp thời khắc phục thiệt hại do tội phạm gây ra đối với họ. Bên cạnh đó, người bị hại là người biết được các tình tiết của vụ án nên họ cũng phải có nghĩa vụ công dân trong việc giúp các cơ quan tiến hành tố tụng tìm ra sự thật khách quan của vụ án.

Do vậy, khi tham gia tố tụng, người bị hại có một số quyền và phải thực hiện một số nghĩa vụ nhất định. Hiện nay, quyền và nghĩa vụ của người bị hại được quy định tại Điều 51 BLTTHS.

Quyền của người bị hại

Người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền:

Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu: Người bị hại hoặc đại diện có quyền đưa ra những đồ vật tài liệu để chứng minh hành vi phạm tội, chứng minh những thiệt hại mà họ đã phải chịu do hành vi phạm tội gây ra… Người bị hại cũng có quyền yêu cầu mời thêm người làm chứng, yêu cầu giám định mức độ thương tật…

Được thông báo về kết quả điều tra: Người bị hại được thông báo kết quả điều tra để họ biết được những vấn đề thuộc nội dung vụ án, trên cơ sở đó họ chuẩn bị chứng cứ, lí lẽ hoặc yêu cầu để buộc tội bị cáo hoặc để chứng minh những thiệt hại mà bị can gây ra cho mình.

Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Đề nghị mức bồi thường và các biện pháp đảm bảo bồi thường: Người bị hại rất quan tâm đến việc quyền lợi của họ được giải quyết như thế nào, họ không những có quyền đề nghị mức bồi thường cho thỏa đáng mà còn có quyền đề nghị các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp cần thiết để đảm bảo bồi thường như kê biên tài sản hoặc các biện pháp khác.

Tham gia phiên tòa, trình bày ý kiến tranh luậ tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Người bị hại có quyền tham gia phiên tòa để thực hiện các quyền của mình. Tại phiên tòa họ có thể đề nghị thay đổi người tiến hành hoặc tham gia tố tụng, đưa đồ vật, tài liệu và yêu cầu, được trình bày ý kiến, tham gia tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tòa án phải giao giấy triệu tập cho người bị hại để họ có quyền tham gia phiên tòa.

Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, kháng cáo bản án, quyết định của tòa án về phần bồi thường cũng như hình phạt đối với bị cáo: Người bị hại là người có quyền lợi liên quan trong vụ án, nếu các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng không có căn cứ hoặc trái pháp luật, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của họ thì họ có quyền khiếu nại. Người bị hại cũng có quyền kháng cáo bản án, quyết định của tòa án về phần bồi thường cũng như hình phạt đối với bị cáo. Khi tội phạm xảy ra, quan hệ pháp luật hình sự xuất hiện là quan hệ giữa nhà nước và chủ thể của tội phạm (về quan hệ pháp luật tố tụng hình sự thì đó là giữa cơ quan tiến hành tố tụng và bị can, bị cáo), còn mối quan hệ giữa bị can, bị cáo và người bị hại chỉ là quan hệ dân sự trong việc bồi thường những thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra. Mặc dù vậy, do người bị hại là nạn nhân của hành vi phạm tội, những thiệt hại mà người bị hại phải gánh chịu không chỉ là những thiệt hại về vật chất mà còn là những tổn thất khác về tinh thần, không chỉ bồi thường thiệt hại vật chất mà còn có thể giải quyết được. Vì vậy, ngoài quyền kháng cáo về mức bồi thường, pháp luật còn quy định cho người bị hại được quyền kháng cáo cả về phần hình phạt, được thể hiện ý chí nguyện vọng của mình trong việc yêu cầu Nhà nước xử lí thích đáng về hình sự đối với bị cáo.

Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại tại Điều 105 BLTTHS năm 2003 thì người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa. Quyền được yêu cầu khởi tố vụ án là quyền đặc thù của người bị hại. Thông thường, việc khởi tố vụ án là do cơ quan tiến hành tố tụng quyết định nhưng trong một số trường hợp luật định, việc khởi tố vụ án lại phụ thuộc vào ý chí của người bị hại, vụ án chỉ được khởi tố khi có đơn yêu cầu của người bị hại.

Khi mà hành vi phạm tội gây nguy hại không lớn cho xã hội (những tội thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại đều là tội ít nghiêm trọng, trừ khoản 1 Điều 111 và khoản 1 ĐiỀU 113 Bộ luật Hình sự) và việc giải quyết vụ án trên thực tế có thể mang lại những hậu quả bất lợi mà người bị hại không mong muốn thì Nhà nước cho phép người bị hại được quyết định việc yêu cầu khởi tố vụ án hình sự hay không. Quy định này thể hiện rõ nét sự quan tâm của Nhà nước đến quyền lợi thực sự của người bị hại.

Cùng với quyền yêu cầu khởi tố vụ án trong những trường hợp này, người bị hại và đại diện hợp pháp của họ còn có quyền rút yêu cầu khởi tố trước khi mở phiên tòa và quyền trình bày lời buộc tội tại phiên tòa.

Nghĩa vụ của người bị hại

Phải có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án: Người bị hại phải có mặt khi cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập để thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình tạo điều kienj thuận lợi cho việc giải quyết vụ án.

Nghĩa vụ khai báo: Người bị hại có nghĩa vụ phải khai báo, cung cấp những thông tin cần thiết giúp cho việc làm sáng tỏ sự thật của vụ án. Việc giải quyết đúng đắn vụ án không chỉ nhằm bảo vệ lợi ích Nhà nước mà còn nhằm bảo vệ lợi ích của người bị hại nên người bị hại thường chủ động tích cực trong việc khai báo. Việc họ từ chối khai báo mà không có lý do chính đáng là việc không bình thường, không phù hợp tâm lý của nạn nhân. Hành vi đó gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, có thể bị coi là tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 Bộ luật hình sự.


Hướng hoàn thiện quy định về quyền và nghĩa vụ của người bị hại theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003

Vấn đề liên quan đến đại diện hợp pháp của người bị hại

Thứ nhất, khoản 5 Điều 51 Bộ luật TTHS quy định: “Trong trường hợp người bị hại chết thì người đại diện hợp pháp của họ có những quyền được quy định tại điều này”. Như vậy trường hợp người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần, thể chất khi tham gia tố tụng thì đại diện hợp pháp của họ có được tham gia tố tụng và có được hưởng các quyền của người bị hại không? Trong thực tế gặp trường hợp này cơ quan tiến hành tố tụng thường cho phép đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất sử dụng các quyền của người bị hại như tinh thần của khoản 5 Điều 51 Bộ luật TTHS.

Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về quyền và nghĩa vụ của người bị hại và việc hoàn thiện quy định này
Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về quyền và nghĩa vụ của người bị hại và việc hoàn thiện quy định này

Thứ hai, Bộ luật TTHS chỉ quy định trường hợp người bị hại chết mà chưa quy định trường hợp người bị hại mất tích. Vậy trường hợp người bị hại được xác định là mất tích thì vấn đề người đại diện hợp pháp của họ được quy định và giải quyết như thế nào? Họ có được phép tham gia tố tụng và được thực hiện các quyền của người bị hại không? Thực tiễn giải quyết vụ án cho thấy cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết không thống nhất với nhau.

Thứ ba, trong hai trường hợp nêu trên cơ quan tiến hành tố tụng không xác định được ai là người đại diện hợp pháp, hoặc người bị hại thực tế cũng không còn ai là người đại diện hợp pháp thì giải quyết như thế nào? Người thân của người bị hại có được tham gia tố tụng không và với tư cách gì? Về vấn đề này chưa có sự nhận thức và áp dụng thống nhất. Hiện có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này. Đây là vấn đề cần được nghiên cứu bổ sung vào Bộ luật để đảm bảo sự thống nhất trong quá trình áp dụng cũng như đảm bảo các quyền của người bị hại. Người thân của người bị hại chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất được tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp, khi tham gia tố tụng họ có các quyền của người bị hại. Trường hợp người bị hại không còn ai là người thân thì cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử người bảo vệ quyền lợi cho họ.

Thứ tư, trong trường hợp người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền và nghĩa vụ mâu thuẫn với nhau thì giải quyết như thế nào? Cho đến nay vấn đề này chưa được cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn cụ thể. Ví dụ: vợ giết chồng mà người chồng còn có bố, mẹ và các con của người chồng này đã thành niên. Theo quy định pháp luật thì những người này đều là người đại diện hợp pháp của người bị hại. Tuy nhiên bố, mẹ của người chồng yêu cầu Tòa án phải tuyên mức án nghiêm khắc đối với người con dâu đã giết con ruột của mình, trong khi đó những người con lại yêu cầu Toà án áp dụng hình phạt nhẹ cho mẹ mình. Trong trường hợp này mặc dù vẫn có ý kiến khác nhau nhưng theo chúng tôi cần xác định họ đều là những người đại diện hợp pháp của người bị hại và họ có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng như nhau.Tuy nhiên, khi tham tố tụng Tòa án cần yêu cầu những người có cùng quyền lợi cử một người tham gia, nhưng Tòa án cần quyết định riêng đối với từng người, những người không tham gia tố tụng phải làm thủ tục ủy quyền cho người tham gia tố tụng.

Vấn đề liên quan đến việc quy định và thực hiện các quyền của người bị hại:

Thứ nhất, phạm vi thực hiện quyền kháng cáo của người bị hại. Tại điểm e khoản 2 Điều 51 Bộ luật TTHS quy định: người bị hại có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về phần bồi thường cũng như về phần hình phạt đối với bị cáo. Như vậy, quy định này chỉ cho phép người bị hại kháng cáo trong phạm vi phần bồi thường và phần hình phạt, những phần khác trong bản án như: phần dân sự cũng như vấn đề liên quan đến tội danh, đến khung hình phạt… nếu không đồng tình với bản án và quyết định của Tòa án thì người bị hại không có quyền kháng cáo. Trong khi đó tại Điều 231 Bộ luật TTHS lại quy định: Người bị hại và người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án và quyết định của Tòa án. Như vậy theo quy định này thì người bị hại có quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm. Điều luật không thể hiện bất cứ sự giới hạn nào như tinh thần của Điều 51 Bộ luật TTHS. Như vậy phải chăng nội dung hai điều luật lại mâu thuẫn với nhau và khi gặp trường hợp trên Tòa án sẽ giải quyết như thế nào? Cho đến nay chưa có văn bản nào của cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn áp dụng hai điều luật trên, vì vậy mỗi nơi áp theo cách hiểu riêng của mình. Để khắc phục sự mâu thuẫn, đảm bảo sự thống nhất trong quá trình áp dụng, cũng như để bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích của người bị hại theo chúng tôi cần thiết phải sửa lại nội dung Điều 51 Bộ luật TTHS theo hướng cho phép người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết định của tòa án cấp sơ thẩm.

Thứ hai, nghiên cứu các quy định trong Bộ luật TTHS hiện hành cho thấy pháp luật TTHS chưa khẳng định người bị hại là một bên trong tranh tụng, thực hiện chức năng buộc tội. Do vậy cần sửa lại Điều 191 Bộ luật TTHS theo hướng khẳng định: trường hợp tại phiên tòa người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp những người này yêu cầu hoặc đồng ý để Tòa án xét xử vắng mặt họ. Sự tham gia phiên tòa của người bị hại có mục đích hoàn toàn khác với nguyên đơn và bị đơn dân sự vì vậy không thể đồng nhất sự tham gia phiên tòa của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự với người bị hại như tinh thần của Điều luật này. Thực tiễn xử lý vụ án hình sự cho thấy không ít trường hợp người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ bị kẻ phạm tội hoặc những người thân của người này khống chế, đe dọa, mua chuộc, lừa dối hoặc có những thủ đoạn khác… làm cho người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ không thể tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích của mình, không thể có mặt để thực hiện việc khai báo theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng và vô hình chung họ lại phạm vào tội từ chối khai báo theo Điều 308 BLHS. Để khắc phục tình trạng trên, bên cạnh quy định về bảo vệ người làm chứng, cũng cần bổ sung quy định về bảo vệ người bị hại khi người bị hại yêu cầu và cơ quan tiến hành tố tụng có cơ sở cho rằng người bị hại bị đe dọa. – Thứ ba, cơ chế thỏa thuận nhận tội và bồi thường thiệt hại giữa người bị hại và bị can, bị cáo trong một số trường hợp là vấn đề được áp dụng khá phổ biến ở các nước. Ở đó, nhà nước cho phép một người phạm tội có thể thỏa thuận nhận tội với cơ quan có thẩm quyền và được phép thỏa thuận việc bồi thường thiệt hại với người bị hại. Đây cũng là vấn đề mới ở Việt Nam, vì vậy trong tiến trình cải cách tư pháp, hoàn thiện các cơ chế bảo vệ quyền của công dân trong tố tụng hình sự, nên chăng chúng ta triển khai nghiên cứu cơ chế để tìm kiếm khả năng tiếp thu và vận dụng cho phù hợp với tình hình thực tiễn ở nước ta.

Vấn đề liên quan đến chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại

Khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại (hay còn gọi là tư tố) là một chế định không mới, được áp dụng khá phổ biến trong pháp luật các nước. Ở Việt Nam chế định này lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật TTHS năm 1988. Đây là chế định thể hiện tính dân chủ, sự tôn trọng và cảm thông trước sự thiệt hại, mất mát, đau đớn của người bị hại. Mặc dù nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự Việt Nam là nguyên tắc công tố, tức là hành vi phạm tội phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước, Nhà nước đã cam kết sẽ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mọi công dân bằng một văn bản pháp lý có giá trị cao nhất, đó là Hiến pháp, bằng cả hệ thống pháp luật và cơ chế đảm bảo thực hiện. Mọi hành vi phạm tội xâm hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân sẽ bị Nhà nước xử lý nghiêm khắc. Tuy nhiên, khi xử lý hành vi phạm tội, Nhà nước còn phải quan tâm đến nguyện vọng và lợi ích chính đáng của người bị hại. Thực tế cho thấy mặc dù bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra nhưng người bị hại lại không muốn đưa ra xử lý vì như vậy sẽ ảnh hưởng đến uy tín, danh dự, tương lai của họ, cũng có trường hợp giữa người bị hại và người gây thiệt hại có những mối quan hệ đặc biệt. Điều 51 và Điều 105 Bộ luật TTHS đã ghi nhận yêu cầu của người bị hại. Quá trình áp dụng cho thấy chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại đã phát huy hiệu quả, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại được bảo vệ tốt hơn.

Tuy nhiên so với yêu cầu đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, chế định này cũng đã bộc lộ một số bất cập. Chẳng hạn: Theo quy định tại khoản 3 Điều 51 Bộ luật TTHS, trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại quy định tại Điều 105 Bộ luật này thì người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa. Đây là một nội dung đã được quy định từ những năm 1988, qua các lần sửa đổi, bổ sung, Bộ luật TTHS vẫn giữ nguyên quy định này. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền về việc người bị hại trình bày lời buộc tội bị cáo tại phiên tòa như thế nào. Trường hợp nếu người bị hại trình bày lời buộc tội thì kiểm sát viên tham gia phiên tòa có trình bày lời buộc tội nữa không? Lời buộc tội của người bị hại có giá trị như thế nào? Sự có mặt của người bị hại trong trường hợp này có bắt buộc như đối với kiểm sát viên không? Thực tiễn xét xử cho thấy mọi việc đều do kiểm sát viên thực hiện, còn người bị hại trong trường hợp này cũng không có gì đặc biệt so với người bị hại trong các vụ án khác. Hơn nữa, bản thân quy định này cũng chưa thật đầy đủ và phù hợp, chẳng hạn trong giai đoạn trước khi mở phiên tòa thì người bị hại có các quyền hạn cụ thể nào, cách thức thực hiện các quyền đó ra sao cũng chưa được quy định rõ.Do vậy cầnnghiên cứu để mở rộng hơn nữa phạm vi các tội mà cơ quan có thẩm quyền chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại, nghiên cứu để bổ sung các quyền của người bị hại trong giai đoạn trước xét xử, theo hướng cho phép người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến vụ án nếu không thuộc bí mật nhà nước để phục vụ cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, cần quy định cụ thể thủ tục tố tụng riêng cho trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại.

Tất cả những sửa đổi trên đây nếu được chấp nhận sẽ có thể đảm bảo chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại đi vào thực chất, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại mới được đảm bảo.

Vấn đề con người và quyền con người là vấn đề xuyên suốt trong lịch sử, bảo đảm các quyền của con người, quan tâm và bảo vệ con người đã và đang được đặt ra ngày càng cấp thiết hơn. Nhà nước Việt Nam là nhà nươc của dân, do dân và vì dân nên mọi hoạt động của nhà nước đều hướng vào mục đích cuộc sống của nhân dân. Pháp luật quy định biện pháp trừng phạt với hành vi xâm phạm con người thì cũng chú trọng tới lợi ích của người bị xâm hại. Muốn bảo vệ được người bị thiệt hại thì phải cho họ tham gia vào hoạt động tố tụng để họ có thể bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy vậy, pháp luật vẫn chú trọng tới việc trừng trị người phạm tội hơn và ít chú ý tới quyền lợi của người bị hại. Do đó, cần có những quy định trong BLTTHS thật rõ ràng và cụ thể tạo cơ sở cho người bị hại thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Việc nghiên cứu và tìm hiểu một cách hệ thống các quy định về địa vị pháp lý của người bị hại sẽ giúp cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt nhiệm vụ của mình trong việc đảm bảo quyền lợi cho người bị hại.


Trên đây là toàn bộ thông tin mà chúng tôi cung cấp đến bạn về vấn đề: Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về quyền và nghĩa vụ của người bị hại và việc hoàn thiện quy định này. Để được tư vấn cụ thể hơn bạn vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn luật trực tuyến qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy.

Trân trọng./.

phone-call

GỌI HỎI ĐÁP MIỄN PHÍ

Scroll to Top