Trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, mỗi Bộ luật được ban hành đều có những nguyên tắc cơ bản của riêng bộ luật đó do nhà làm luật quy định. Đối với Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) cũng vậy. Những nguyên tắc này thể hiện chính sách hình sự, quan điểm giải quyết vụ án hình sự của Nhà nước ta, bao gồm 26 nguyên tắc cơ bản được quy định trong Chương II Phần thứ nhất của BLTTHS 2015. Mỗi nguyên tắc của tố tụng hình sự, sự ràng buộc của nó, giá trị điều chỉnh của nó có ý nghĩa đối với cả hệ thống tố tụng hình sự, có hiệu lực đối với tất cả chủ thể của các quan hệ tố tụng. Tuy nhiên, sự tác động của mỗi nguyên tắc ở từng giai đoạn là không như nhau. Muốn phát huy được hiệu lực của các nguyên tắc thì phải đặt các nguyên tắc trong mối liên hệ, phối hợp với nhau, bổ sung cho nhau. Ngoài ra, nguyên tắc của tố tụng hình sự được đặt ra với vai trò định hướng, chỉ đạo đối với loạt hoạt động và quan hệ trong tố tụng hình sự. Có thể nói rằng, Chương II BLTTHS – những nguyên tắc cơ bản đã thể hiện được đầy đủ tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ra đối với cải cách tố tụng hình sự là tư tưởng về dân chủ hóa các quan hệ tố tụng, thực hiện tranh tụng trong quá trình tố tụng. Đặc biệt về vấn đề dân chủ hóa trong tố tụng hình sự, sự dân chủ hóa được đề ra nhằm bảo đảm sự bình đẳng của các bên trong tố tụng hình sự, triệt để tôn trọng quyền con người, quyền công dân trong quá trình tiến hành tố tụng. Đây là xu hướng không thể đảo ngược của tố tụng hình sự trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Bên cạnh các nguyên tắc như nguyên tắc “Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân” cụ thể hóa quy định của Hiến pháp 2013 về tôn trọng, đảm bảo quyền con người, quyền công dân; nguyên tắc “Suy đoán vô tội” phù hợp với quy định Hiến pháp 2013 về bảo đảm quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội… thì nguyên tắc “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự” cũng là một quy định được đưa ra nhằm bảo vệ quyền con người, quyền lợi công dân không chỉ của bị hại, đương sự mà cả người bị buộc tội trong quá trình tố tụng. Theo đó, em xin chọn đề bài số 06: Nguyên tắc “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự” của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Nội dung
- 1 Một số vấn đề lí luận về nguyên tắc “ Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích của bị hại, đương sự”.
- 2 Nội dung của nguyên tắc “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích của bị hại, đương sự”.
- 3 Thực trạng bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự.
- 4 Kết luận
- 5 Tài liệu tham khảo
Một số vấn đề lí luận về nguyên tắc “ Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích của bị hại, đương sự”.
Người bị buộc tội.
Theo Điểm đ Khoản 1 Điều 4 BLTTHS 2015 giải thích về người bị buộc tội thì: “Người bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.”
- Người bị bắt: là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và người bị bắt theo quyết định truy nã (Điều 58).
- Người bị tạm giữ: là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ (Điều 59).
- Bị can: là người đã bị khởi tố về hình sự và tham gia tố tụng từ khi có quyết định khởi tố bị can đối với họ. Bị can tham gia vào giai đoạn điều tra, truy tố bà một phần giai đoạn xét xử sơ thẩm (Điều 60).
- Bị cáo: là người bị tòa án quyết định đưa ra xét xử. Bị cáo tham gia tố tụng từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến khi bản án hoặc quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật (Điều 61).
Bị hại.
Theo Khoản 1 Điều 62, BLTTHS 2015 định nghĩa về người bị hại thì: “1. Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.”
Trong BLTTHS 2003 đưa ra khái niệm Người bị hại theo đó “Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra”. BLTTHS nước ta tại thời điểm này chỉ coi bị hại là cá nhân, là công dân bị tội phạm gây thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản, pháp nhân hay tổ chức xã hội không được coi là đối tượng bị hại. Tuy nhiên, trong BLTTHS 2015, thuật ngữ Người bị hại trước đây được thay thế bằng thuật ngữ bị hại. Trong đó, khái niệm về chủ thể bị hại được mở rộng hơn, bị hại không còn chỉ là cá nhân, công dân mà còn cả pháp nhân. Điều này cho thấy sự tiến bộ hơn của hệ thống pháp luật nhằm đảm bảo không chỉ quyền lợi của công dân mà còn của các đối tượng đặc biệt khác.
Bào chữa, quyền bào chữa.
Lịch sử xã hội loài người là lịch sử của các cuộc đấu tranh giành các quyền dân chủ và tiến bộ. Các quyền tự do, dân chủ mà con người có được ngày nay là kết quả của quá trình đấy tranh lâu dài, bền bỉ của những lực lượng tiến bộ chống lại những thế lực độc tài, phản dân chủ trên thế giới. Một trong những quyền dân chủ mà con người giành được trong các cuộc đấu tranh này là quyền bào chữa. Ở tất cả các nước tiến bộ trên thế giới, quyền bào chữa đều đã được ghi nhận, được coi là nguyên tắc của Hiến pháp và được cụ thể hóa trong những quy định của BLTTHS.
Về nội dung: Bào chữa là tất cả các hoạt động của người bị buộc tội và người bào chữa từ khi bị buộc tội đến khi có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án không bị kháng cáo, kháng nghị. Thông qua hành vi cụ thể, họ sử dụng các quyền luật định để làm sáng tỏ những tình tiết chứng minh cho sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như những tình tiết khác có lợi cho người bị buộc tội. Đó có thể là hành vi tố tụng hướng tới việc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ sự buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng; hoặc nhằm đưa ra chứng cứ nhằm làm giảm nhẹ trách nhiệm của người bị buộc tội; hoặc các hành vi tố tụng nhằm đảm bảo các quyền và lợi ích được pháp luật bảo vệ của người bị buộc tội kể cả khi chúng không trực tiếp liên quan tới việc làm giảm trách nhiệm hình sự trong vụ án.
Về vai trò: Bào chữa là một trong những nội dung cơ bản của tố tụng hình sự, đối trọng với chức năng buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng. Chính sự đối trọng này đảm bảo cho hoạt động tố tụng hình sự được dân chủ, khách quan.
Về thời điểm bắt đầu và kết thúc: Quyền bào chữa xuất hiện từ khi giữ người trong trườn hợp khẩn cấp, bắt người, có quyết định tạm giữ hoặc từ khi khởi tố bị can. Quyền bào chữa kết thúc khi vụ án được xét xử và bản án có hiệu lực pháp luật. Trong một số trường hợp đặc biệt, khi những căn cứ của việc buộc tội không còn, chủ thể có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ vụ án thì chức năng bào chữa sẽ kết thúc sớm hơn.
Về chủ thể: Quyền bào chữa không chỉ thuộc về bị can, bị cáo mà còn thuộc về người bị tình nghi phạm tội, túc là những người bị bắt, bị tạm giữ nhưng chưa bị khởi tố và người bào chữa, người đại diện hợp pháp của họ. Như vậy, chủ thể của quyền bào chữa là người bị buộc tội, bao gồm người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Quyền bào chữa là một chế định quan trọng của luật TTHS nhưng khái niệm, chủ thể, nội dung của quyền bào chữa vẫn còn là những vấn đề gây tranh cãi giữa các nhà khoa học pháp lý cũng như những cán bộ làm công tác áp dụng pháp luật. Trong BLTTHS năm 1988, ban đầu chỉ quy định chủ thể của quyền bào chữa bao gồm bị can và bị cáo, đến BLTTHS 2003, chủ thể của quyền bào chữa được mở rộng, không chỉ còn bị can, bị cáo mà còn cả những người bị tạm giữ. Sau quá trình sửa đổi bổ sung, đến BLTTHS 2015, quyền bào chữa một lần nữa mở rộng phạm vi của chủ thể. Theo đó, quyền bào chữa thuộc về người bị buộc tội, bao gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Những đối tượng nói trên có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Người bào chữa khác có thể là luật sư, bào chữa viên nhân dân, hoặc người đại diện hợp pháp của người bị buộc tội. Ngoài ra, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này.
Ý nghĩa của nguyên tắc.
Quyền con người, quyền bào chữa đều là những quyền lợi đặc thù, cơ bản của công dân, được ghi nhận tại tất cả các bản Hiến pháp của nước ta. Việc ghi nhận bảo đảm quyền và lợi ích là một trong những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tố tụng hình sự có ý nghĩa to lớn về mọi mặt, là một biểu hiện của tư tưởng bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Với tư cách là nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự, việc bảo đảm quyền bào chữa, đảm bảo quyền và lợi ích của các đối tượng có liên quan là tiêu chuẩn, yêu cầu trong hoạt động tố tụng; là cơ chế để người bị bắt, bị can, bị cáo, người bị tạm giữ, bị hại, đương sự bảo vệ mình và được bảo vệ trong tố tụng.
Nội dung của nguyên tắc “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích của bị hại, đương sự”.
Tố tụng hình sự xét cho cùng là quá trình giải quyết trên cơ sở pháp luật các xung đột giữa một bên là nhà nước với một bên là người bị cho đã thực hiện một hành vi tội phạm. Tuy nhiên, tham gia tố tụng hình sự còn có nhiều chủ thể khác nhau, bởi vậy, thực hiện các quy định của Hiến pháp về quyền con người trong tố tụng hình sự cần áp dụng đối với các chủ thể sau đây:
Quyền của người bị buộc tội, đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội.
Quyền của người bị buộc tội.
Trong TTHS, bên bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Bảo vệ quyền của những người này được thể hiện bằng việc quy định các quyền của người bị buộc tội, và tương ứng với nó là nghĩa vụ của những người tiến hành tố tụng. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2105, quyền con người của người bị buộc tội được thể hiện thông qua hệ thống các nguyên tắc khá đồ sộ và được cụ thể hóa trong các chế định về chứng minh, chứng cứ, các biện pháp ngăn chặn, nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng; trong các quy định về xét xử của Tòa án và vấn đề minh oan cho người bị oan,…
Về quyền của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) nước ta quy định khá đầy đủ các quyền của người bị buộc tội như: quyền được biết mình bị buộc tội về tội gì; quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình; quyền được chứng minh sự vô tội của mình bằng việc đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; quyền được khiếu nại các quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng; quyền được tham gia phiên tòa và tranh luận tại phiên tòa; quyền không bị xét xử một cách quá chậm trễ thể hiện các quy định về thời hạn tạm giữ để khởi tố vụ án, thời hạn điều tra, thời hạn truy tố, thời hạn xét xử,… được quy định cụ thể trong các Điều 58, 59, 60, 61 của BLTTHS 2015.

Đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội.
Quyền bào chữa là một trong những quyền quan trọng của công dân khi tham gia tố tụng và luôn được đề cập trong các đạo luật của mỗi quốc gia. Ở nước ta, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa là nguyên tắc Hiến định, đồng thời là nguyên tắc đặc thù của tố tụng hình sự. Việc ghi nhận và thực hiện nguyên tắc này góp phần quan trọng vào việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, giúp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án giải quyết vụ án khách quan, toàn diện và chính xác.
Trên cơ sở cụ thể hóa nguyên tắc quy định tại Điều 31 Hiến pháp năm 2013, Điều 16 BLTTHS năm 2015 quy định về bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội như sau: “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này”.
Trong những trường hợp luật định, nếu người bị buộc tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải yêu cầu đoàn luật sư cử người bào chữa cho họ. Mặt khác, để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện và đầy đủ, không để lọt kẻ phạm tội, không làm oan người vô tội thì việc bào chữa là cần thiết, giúp cơ quan tiến hành tố tụng xác định sự thật khách quan của vụ án. Hơn nữa, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự không chỉ có buộc tội mà nó chỉ có thể đạt hiệu quả cao khi tồn tại song song hai chức năng buộc tội và gỡ tội. Đó cũng là một trong những cơ sở giúp Toà án giải quyết vụ án được chính xác.
Như vậy, quyền bào chữa của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự là quyền của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện trên cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự trong vụ án hình sự hoặc để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt cũng có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình (điểm g khoản 1 Điều 58 BLTTHS năm 2015). Như vậy, cùng với sự mở rộng diện người được bào chữa thì thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng cũng sớm hơn, nếu như trước đây, nguời bào chữa được tham gia bảo vệ quyền lợi cho người bị buộc tội từ khi bị tạm giữ thì theo BLTTHS mới, người bào chữa được tham gia tố tụng và bảo vệ quyền lợi cho người bị buộc tội ngay từ khi bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt. Quy định như vậy không chỉ nhằm thực hiện tốt hơn việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội mà còn là một trong những giải pháp để hạn chế oan, sai ngay từ đầu.
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự.
Trong TTHS, nạn nhân của tội phạm tham gia tố tụng với tư cách bị hại không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ. Ở phương diện quyền lợi nói chung, bị hại đã bị tội phạm xâm phạm bằng cách gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản cũng như các quyền lợi ích hợp pháp khác. Trong TTHS, quyền của người bị hại biểu hiện ở chỗ được yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng bảo vệ quyền lợi của mình. Đó là: quyền được đưa ra các yêu cầu đối với cơ quan tiến hành tố tụng; quyền được đưa ra các tài liệu, đồ vật bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình; quyền được tham gia, giám sát các hoạt động TTHS của các cơ quan tiến hành tố tụng; quyền được khiếu nại, kháng cáo các quyết định, bản án của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án,… tất cả được quy định đầy đủ tại Khoản 2 Điều 62, BLTTHS 2015 về quyền của bị hại hoặc người đại diện của họ. Đặc biệt, người bị hại có quyền được bảo vệ an toàn trong quá trình tiến hành tố tụng cũng như được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, thông tin cá nhân, bí mật đời tư,… Chẳng hạn như trong các tội xâm phạm tình dục (Tội hiếp dâm, Tội hiếp dâm trẻ em),… Bộ luật TTHS quy định phải xử kín.
Ngoài bị hại là đương sự trong vụ án hình sự ra, vụ án còn có thể có nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án khác. Căn cứ theo quy định về quyền của các đương sự, quyền của các đối tượng khác về cơ bản đều giống như với bị hại. So với bị hại, những đối tượng khác liên quan trong vụ án hình sự không có quyền đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm thiệt hại, những đối tượng đó chỉ có quyền kháng cáo đối với những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích và nghĩa vụ của mình.
Thực trạng bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự.
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội.
Thực trạng.
Thực tế cho thấy hiện nay vai trò của người bào chữa đang được nâng cao dần. Sự tham gia của người bào chữa ngày càng tích cực góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Không hiếm các trường hợp oan sai đã được giải oan nhờ vào sự giúp đỡ tận tình của người bào chữa. Nhiều đối tượng cũng được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, giảm nhẹ hình phạt nhờ sự giúp đỡ của người bào chữa.
Mặc dù vai trò được nâng cao nhưng chất lượng của người bào chữa hiện nay vẫn còn khá hạn chế. Điều này thể hiện ở trong nhiều phiên tòa khi người bào chữa chỉ cãi cố mà không đưa ra được những chứng cứ gỡ tội cụ thể, thuyết phục; lại cũng có không ít người bào chữa nhận bào chữa nhưng không tích cức mà chỉ chuẩn bị bài bào chữa sơ sài, hời hợt, thậm chí không tham gia phiên tòa. Nhiều trường hợp người bào chữa vi phạm nghiêm trọng quy chế đạo đức nghề nghiệp. Nhiều người bào chữa vẫn thực hiện vụ việc cho khách hàng dù biết khách hàng sử dụng dịch vụ của mình vào mục đích trái pháp luật và trái đạo đức xã hội. Để bảo vệ thân chủ của mình, nhiều người bào chữa đã bất chấp công lý, sử dụng cả những biện pháp trái pháp luật. Đó là những người bào chữa đặt lợi ích kinh tế lên hàng đầu.
Ngoài ra, theo nghiên cứu về 03 vụ án oan sai từng được dư luận quan tâm là vụ án của Nguyễn Thanh Chấn, Hàn Đức Long và Huỳnh Văn Nén, có thể nhận thấy rằng chính vì sự vắng mặt của luật sư hay người bào chữa ngay từ đầu, bị can không có quyền im lặng, dẫn đến tình trạng ép cung, bức cung, nhục hình. Điều này là điền hình cho hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm nhân quyền dẫn đến những hậu quả nặng nề cho những đối tượng đáng nhẽ ra không phải chịu những hình phạt này, tạo điều kiện cho những kẻ phạm tội tự do ngoài pháp luật.
Đánh giá về thực trạng.
Nhờ sự đổi mới các quy định về người bào chữa trong tố tụng, có thể thấy rằng nhà nước đang ngày càng hơn nữa đảm bảo quyền con người, quyền công dân của người bị buộc tội. Chẳng hạn, quy định về người bào chữa trong BLTTHS 2015, trước đây người bào chữa muốn thực hiện hoạt động bào chữa thì phải xin cấp giấy chứng nhận bào chữa nhưng hiện nay là thủ tục đăng kí bào chữa. Việc chuyển đổi này là một trong những điểm đột phá khi xác lập địa bị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự. Về bản chất, thủ tục này đã hủy bỏ rào cản lớn, xóa bỏ cơ chế hành chính xin cho giữa người bào chữa với các cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng, giúp người bào chữa dễ dàng thực hiện việc bào chữa cho người bị buộc tội, từ đó bảo đảm quyền lợi của những người bị buộc tội. Hơn nữa, để hạn chế tình trạng bị ép từ chối luật sư, Điều 77 BLTTHS 2015 quy định: “Mọi trường hợp thay đổi hoặc từ chối người bào chữa đều phải có sự đồng ý của người bị buộc tội và được lập biên bản đưa vào hồ sơ vụ án, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này…”
Tuy vậy, một số quy định của pháp luật về đảm bảo quyền bào chữa chưa đầy đủ, đồng bộ, chưa hợp lý hoặc chưa đưa ra được hướng dẫn cụ thể, rõ ràng dẫn đến khó áp dụng, cách hiểu thiếu thống nhất giữa cơ quan tiến hành tố tụng với người bào chữa, các tổ chức hành nghề luật sư hoặc hiệu quả áp dụng không cao, làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội. Ngoài ra, nhận thức pháp luật, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và tinh thần trách nhiệm trong công tác của một số công chức trong các cơ quan tiến hành tố tụng còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp.
Mặc dù vậy, việc không đảm bảo được quyền bào chữa không chỉ do lỗi đến từ bộ máy pháp luật hay của người thuộc các cơ quan chức năng tiến hành việc tố tụng mà còn đến từ cả phía của những người bị buộc tội, bị hại, đương sự. Việc phổ cập, tuyên truyền pháp luật đến nhân dân còn nhiều hạn chế, dẫn đến việc trình độ, hiểu biết về pháp luật của các đối tượng có liên quan trong vụ án hình sự có thể còn thấp, chẳng hạn như họ không hiểu, không biết được quyền, nghĩa vụ mà pháp luật đã quy định cho họ khi tham gia vào tố tụng.
Một số kiến nghị nhằm đảm bảo quyền bào chữa.
– Để đảm bảo cho việc áp dụng thống nhất pháp luật Bộ luật TTHS 2015, các văn bản quy định về việc đảm bảo quyền bào chữa, hướng dẫn thực hiện các vấn đề liên quan đến quyền bào chữa trong tố tụng hình sự từ giai đoạn điều tra, truy tố đến xét xử cần được ban hành.
– Nguyên tắc khi thực hiện quyền bào chữa cho người bị buộc tội là cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải có trách nhiệm giải thích đầy đủ các quy định về quyền bào chữa. Để thực hiện tốt điều này, trong các giai đoạn tố tụng phải lập biên bản về việc giải thích quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội, trong đó có quyền bào chữa, người bị buộc tội phải ký xác nhận là đã được giải thích các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Các biên bản này phải được lưu tại hồ sơ vụ án như một quy định bắt buộc.
– Để đảm bảo tốt nhất cho yêu cầu lựa chọn người bào chữa, các Đoàn luật sư, Trung tâm trợ giúp pháp lý cần có danh sách các luật sư và trợ giúp viên pháp lý (ghi rõ địa chỉ liên hệ, điện thoại, khái quát về năng lực…) gửi đến các cơ sở tạm giữ, tạm giam, được niêm yết công khai.
– Để đảm bảo tốt nhất cho quyền bào chữa, các nhà tạm giữ, trại tạm giam cần có phòng riêng cho việc tiếp xúc giữa người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam với người bào chữa.
– Xây dựng quy chế làm việc của người bào chữa khi tiếp xúc với người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ, trại tạm giam hoặc cơ sở giam giữ khác và được áp dụng thống nhất trên phạm vi cả nước.
– Cần có quy định hướng dẫn sau khi người bào chữa đăng ký bào chữa cho người bị buộc tội thì họ có quyền đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tạm hoãn các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử trong thời gian hợp lý để họ có đủ thời gian nghiên cứu về vụ việc thực hiện quyền bào chữa.
– Trong trường hợp đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử, bị cáo mới lựa chọn người bào chữa và người bào chữa có yêu cầu thì Hội đồng xét xử phải tạm hoãn phiên tòa để người bào chữa có đủ thời gian tiếp xúc với bị cáo và nghiên cứu hồ sơ vụ án.
– Để tăng cường việc bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự, trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng trợ giúp pháp lý miễn phí hoặc là thành viên của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mà người bị buộc tội không có yêu cầu lựa chọn luật sư bào chữa thì cơ quan tiến hành tố tụng phải có văn bản đề nghị cử người bào chữa cho họ. Trường hợp người bị buộc tội từ chối người bào chữa là trợ giúp viên pháp lý hoặc bào chữa viên nhân dân thì vẫn tiếp tục các hoạt động tố tụng. Nếu vi phạm thì tùy từng trường hợp có thể trả hồ sơ điều tra bổ sung hoặc hủy án để xét xử lại.
– Trại tạm giam, nhà tạm giữ và cơ sở giam giữ cần tạo điều kiện cho người bị buộc tội muốn tự mình bào chữa được tiếp xúc với các văn bản quy phạm pháp luật liên quan. Hội đồng xét xử cần tạo điều kiện và cho phép bị cáo có quyền mang các tài liệu, văn bản liên quan để thực hiện quyền bào chữa của mình.
Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự.
Thực trạng.
Song song cùng với việc quy định lại đối tượng bị hại, các quy định về quyền của bị hại được bổ sung thêm rất nhiều. Vì vậy, khi đưa vào thực tiễn tố tụng, đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải bảo đảm các quyền đó khi áp dụng pháp luật trong giải quyết vụ án. Do có nhiều quyền mới, việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự chưa có được sự hướng dẫn thi hành cụ thể, dẫn đến nhiều thiếu sót, chưa hoàn toàn đảm bảo được những vấn đề này cho bị hại, đương sự.
Một số kiến nghị nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, đương sự.
– Một là, đối với quyền đưa ra mức bồi thường, các biện pháp bảo đảm việc bồi thường, cần phải hướng dẫn theo hướng mở rộng quyền và cụ thể hóa các biện pháp bảo đảm việc bồi thường. Quyền đưa ra mức bồi thường phải bao gồm các quyền được đưa ra một định mức cụ thể về tài sản được bồi thường, quyền yêu cầu về hình thức, phương thức bồi thường, quyền xác định các loại thiệt hại được bồi thường. Mặt khác, thực tế cho thấy, bị hại ít khi yêu cầu áp dụng các biện pháp bảo đảm việc bồi thường. Điều này xuất phát từ việc bị hại không nắm được quy định của pháp luật về các biện pháp bảo đảm việc bồi thường, chưa có hướng dẫn cụ thể về các biện pháp này. Ngoài ra, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do hành vi phạm tội gây ra hoặc đe doa gây ra là bị hại trong vụ án và họ phải được bồi thường theo nguyên tắc ngang giá, đối với thiệt hại về tài sản, việc xác định và chứng minh đã có cơ sở. Tuy nhiên đối với những thiệt hại về uy tín của cơ quan, tổ chức, hiện nay chưa có căn cứ để xác định, vì vậy cũng cần phải có hướng dẫn cụ thể thiệt hại về uy tín của cơ quan, tổ chức theo hướng đưa ra căn cứ xác định thiệt hại về uy tín, hình thức xâm hại đến uy tín, mức độ thiệt hại về uy tín, phương thức bồi thường và khắc phục hậu quả thiệt hại về uy tín.
Có thể nói quyền được bồi thường là quyền cơ bản nhất và quan trọng nhất của bị hại, bởi vì quyền này đáp ứng được mục đích, nhu cầu của họ khi tham gia tố tụng hình sự. Điều này đặt ra yêu cầu cần phải được hướng dẫn cụ thể hóa mới bảo đảm tính khả thi khi áp dụng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về bảo vệ quyền của bị hại.
– Hai là, đối với quyền được tham gia các hoạt động tố tụng của bị hại. Đây là một quyền mới của bị hại thể hiện vị trí và vai trò của bị hại được chủ động hơn trong quá trình tham gia tố tụng hình sự để bảo vệ kịp thời quyền lợi của mình. Tuy nhiên, việc áp dụng quyền này trên thực tế sẽ rất khó khăn nếu không có hướng dẫn cụ thể bởi vì trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự có rất nhiều các hoạt động tố tụng, trong đó có các hoạt động đặc thù mang tính chuyên môn, thậm chí là có những hoạt động mang tính bí mật (chưa thể công khai) để bảo đảm hiệu quả tố tụng. Mặt khác, có những hoạt động tố tụng, bị hại tham gia là cần thiết nhưng cũng có những hoạt động tố tụng bị hại không cần thiết phải tham gia. Vì vậy, chúng tôi thấy cần có quy phạm hướng dẫn quyền này cụ thể theo hướng trong từng giai đoạn tố tụng bị hại được tham gia vào những hoạt động tố tụng cụ thể nào, mức độ tham gia, hình thức tham gia và trách nhiệm nếu cản trở hoạt động tố tụng khi tham gia.
– Ba là, về quyền yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích khi bị đe dọa. Đây cũng là một quyền mới của bị hại được ghi nhận trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, trong quyền này, người bị hại khi thấy bị đe dọa có thể chủ động yêu cầu để được cơ quan tiến hành tố tụng bảo đảm sự an toàn về thân thể và tài sản. Tuy nhiên, để áp dụng cần phải làm rõ các vấn đề sau: Tính chất nguy hiểm của sự đe dọa đến mức độ nào thì cần có sự bảo vệ của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nào phải bảo vệ; cách thức bảo vệ như thế nào, bảo vệ về tài sản cần phải phối hợp với cơ quan, tổ chức nào.
Kết luận
Tóm lại, so với Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, nhằm đảm bảo hơn nữa việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đã mở rộng phạm vi các quyền của các chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng hình sự, mà ở đây ta đang phân tích chính là quyền bào chữa của người bị buộc tội, các quyền và lợi ích của bị hại, đương sự. Sự mở rộng này mang tính nhân đạo cao, cho thấy mong muốn đem lại bình đẳng, quyền lợi cao nhất cho người bị buộc tội, cũng đồng thời đảm bảo cho bị hại, đương sự đạt được sự công bằng. Có thể nói, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đã có nhiều bước tiến vượt bậc thể hiện tinh thần đề cao quyền con người hơn rất nhiều so với trước đây.
Tài liệu tham khảo
- Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, năm 2017.
- Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
- Bộ luật Tố tụng hình sự 2003.
Trên đây là phần giải đáp thắc mắc của chúng tôi về vấn đề: Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự. Nếu trong quá trình giải quyết còn gì thắc mắc bạn có thể liên hệ chúng tôi qua tổng đài tư vấn luật qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy để được giải đáp.
Trân trọng./.