Phân tích hợp đồng thương mại và các hành vi vi phạm hợp đồng thương mại

Hoạt động phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi vi phạm hợp đồng nhằm bảo đảm trật tự và tạo sự công bằng giữa các chủ thể trong quan hệ hợp đồng là yêu cầu cần thiết trong việc thiết lập và xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh nhằm thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển theo xu hướng hội nhập quốc tế. Để ngăn chặn hành vi vi phạm HĐTM, chúng ta có thể thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau như đề cao đạo đức trong kinh doanh, nâng cao ý thức pháp luật, tuyên truyền phổ biến pháp luật cho các chủ thể kinh doanh. Trong đó, xác định và áp dụng đúng trách nhiệm pháp lý trong thương mại (chế tài thương mại) là biện pháp pháp luật đặc biệt, góp phần trong việc ngăn chặn hiệu quả các hành vi vi phạm. Bên cạnh đó, pháp luật có quy định về các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng thương mại nhằm đảm bảo quyền lợi cho các bên, xác định đúng bản chất căn cứ truy cứu trách nhiệm. Các quy định về miễn trách nhiệm vi phạm hợp đồng còn nhiều tranh cãi, dù vậy trên góc độ lý luận đây là quy định mạng tính chất công bằng, đề cao các trường hợp thực tiễn và tiến bộ, cần phân tích kỹ hơn những quy định này để hoạt động áp dụng pháp luật hiểu quả hơn, cũng như nắm rõ được ngụ ý nhà làm luật.


Danh mục tài liệu tham khảo:

  • Trường Đại học Luật Hà Nội, 2011, “Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam”, Nxb Công an Nhân dân Hà Nội
  • Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo luật kinh tế, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội;
  • Trần Văn Duy, Suy nghĩ về miễn trách nhiệm do bất khả kháng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế hiện nay.

Nội dung

Hợp đồng thương mại và hành vi vi phạm hợp đồng thương mại

Hợp đồng thương mại

Trong hoạt động thương mại cùng với việc pháp luật quy định các chế tài, các trường hợp miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng cũng đóng một vai trò cực kỳ quan trọng đối với việc thực hiện hợp đồng của thương nhân. “Bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận và thống nhất ý chí giữa các chủ thể nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trên cơ sở tự do, tự nguyện và bình đẳng”. Tuy nhiên, một thỏa thuận được xác lập nhằm thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ được coi là hợp pháp khi chúng tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về: thẩm quyền giao kết, mục đích, đối tượng giao kết; hình thức của sự thỏa thuận…

Luật thương mại ở nước ta không đưa ra một định nghĩa cụ thể về hợp đồng thương mại mà chỉ quy định khái niệm chung về hợp đồng dân sự tại Điều 388, BLDS 2005:

“Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.”.

Mà Điều 1 Bộ luật dân sự 2005 quy định về nhiệm vụ và phạm vi điều chỉnh của Bộ luật dân sự quy đinh:

“Bộ luật dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể và nhân thân và tài sản trong quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động…”

Ta có thể hiểu các quy định về hợp đồng dân sự được áp dụng cho hợp đồng nói chung, trong đó bao gồm cả hợp đồng trong lĩnh vực thương mại. Nói cách khác Bộ luật dân sự 2005 chính là luật gốc, điều chỉnh những vấn đề chung nhất, khái quát nhất, còn Luật thương mại cùng với một số luật khác là luật chuyên ngành, quy định những cái cụ thể. Như vậy, hợp đồng thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng dân sự. Tuy nhiên nó cũng có những đặc điểm riêng nhất định.

Hiện nay, khái niệm hợp đồng thương mại là hoạt động thương mại được quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật thương mại 2005:

“Là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”.

Như vậy, ta có thể hiểu một cách khái quát hợp đồng thương mại như sau: “Hợp đồng thương mại là sự thỏa thuận giữa các chủ thể kinh doanh với nhau và với các bên có liên quan về việc xác lập, thay đổi, hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong hoạt động thương mại”.

Vi phạm hợp đồng thương mại

Theo giải thích từ ngữ tại Điều 3 Luật thương mại 2005: “12. Vi phạm hợp đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật này.”

Theo Điều 4 LTM 2005 quy định về việc áp dụng Luật Thương mại và pháp luật có liên quan:

“1.Hoạt động thương mại phải tuân theo Luật Thương mại và pháp luật có liên quan.

Hoạt động thương mại đặc thù được quy định trong luật khác thì áp dụng quy định của luật đó.

Hoạt động thương mại không được quy định trong Luật Thương mại và trong các luật khác thì áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự.”

Như vậy, có thể khẳng định rằng hoạt động thương mại không chỉ chịu sự điều chỉnh của riêng Luật Thương mại, mà cùng với đó là các pháp luật có liên quan khác và đặc biệt là Bộ luật Dân sự – luật chung của các ngành luật tư. Theo khoản 3 của điều luật trên, khi Luật Thương mại và các luật khác không quy định về một hoạt động thương mại nào đó thì áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự, do vậy một số khái niệm Luật thương mại 2005 chưa nhắc đến hoặc chưa làm rõ, chúng ta sẽ phân tích theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 bởi lẽ đây chính là sự liên kết, liên hệ tránh chồng chéo mà các nhà làm luật muốn tối ưu khi áp dụng pháp luật.

Phân tích hợp đồng thương mại và các hành vi vi phạm hợp đồng thương mại
Phân tích hợp đồng thương mại và các hành vi vi phạm hợp đồng thương mại

Trách nhiệm vi phạm hợp đồng và các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng thương mại

Trách nhiệm vi phạm hợp đồng

Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng thương mại là một loại trách nhiệm trong trách nhiệm dân sự, nên chúng mang nhiều đặc điểm của trách nhiệm dân sự, là loại trách nhiệm áp dụng cho thương nhân có hành vi vi phạm hợp đồng thương mại trong lĩnh vực thương mại (kinh doanh – thương mại). Như vậy có thể rút ra khái niệm: Trách nhiệm pháp lý do vi phạm HĐTM là hậu quả mà bên vi phạm HĐTM phải gánh chịu, cơ quan xét xử có thẩm quyền xác định các biện pháp trách nhiệm tương ứng với hành vi vi phạm khi bên bị vi phạm yêu cầu, trừ trường hợp bên vi phạm không phải chịu trách nhiệm hoặc được miễn trách nhiệm.

Phân tích hợp đồng thương mại và các hành vi vi phạm hợp đồng thương mại

Phân tích các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng thương mại

Điều 294 Luật thương mại 2005 quy định về Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm

1. Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây:

a) Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận;

b) Xảy ra sự kiện bất khả kháng;

c) Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia;

d) Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.

2. Bên vi phạm hợp đồng có nghĩa vụ chứng minh các trường hợp miễn trách nhiệm.

Có thể thấy Điều 294 Luật Thương mại 2005 đã có cách quy định các trường hợp miễn trách nhiệm vi phạm hợp đồng trong thương mại với cách tiếp cận linh hoạt hơn và tôn trọng sự thoả thuận của các bên khi quy định bên vi phạm sẽ được miễn trách nhiệm khi xảy ra các trường hợp mà các bên đã thoả thuận. Đây cũng chính là nguyên tắc cơ bản trong các quan hệ dân sự nói chung và quan hệ hợp đồng thương mại nói chung. Các điều khoản của hợp đồng do các bên tự do thỏa thuận và không được trái với pháp luật. Trong thực tiễn hoạt động thương mại, trong nhiều trường hợp vì nhiều lý do khác nhau các bên thường đưa vào hợp đồng thỏa thuận nhằm hạn chế hay miễn trừ trách nhiệm. Do vậy, pháp luật luôn tôn trọng và cho phép tự do thỏa thuận (theo quy định pháp luật).

Điểm a Khoản 1 Điều 294 Luật thương mại 2005 quy định: “Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong trường hợp mà các bên đã thỏa thuận.”

Tuy nhiên để được xác định là trường hợp miễn trách nhiệm khi có vi phạm xảy ra thì thỏa thuận đó phải đáp ứng được các điều kiện sau đây:

Thỏa thuận giữa các bên về trường hợp miễn trách nhiệm phải tồn tại trước khi xảy ra vi phạm và có hiệu lực đến thời điểm bên bị vi phạm áp dụng chế tài. Nếu thỏa thuận được hình thành sau khi có vi phạm xảy ra thì nó có ý nghĩa là bên bị vi phạm không áp dụng biện pháp chế tài đó với bên vi phạm chứ không phải là điều kiện để miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm do có thỏa thuận, bản chất của hai vấn đề hoàn toàn khác nhau.

Khi hợp đồng được giao kết bằng văn bản, thì thỏa thuận miễn trách nhiệm được ghi nhận trong nội dung của hợp đồng hoặc phụ lục của hợp đồng. Nhưng kể cả khi hợp đồng đã ký kết, các bên vẫn có thể thỏa thuận sửa đổi, bổ sung hợp đồng các trường hợp miễn trách nhiệm.

Khi hợp đồng được giao kết bằng lời nói hoặc hành vi cụ thể thì thỏa thuận miễn trách nhiệm cũng có thể được thể hiện bằng lời nói hoặc hành vi cụ thể. Tuy nhiên, việc chứng minh sự tồn tại một thỏa thuận không bằng văn bản sẽ gặp những khó khăn nhất định.

Thực tiễn trong giao kết hợp đồng thương mại cho thấy ít khi các bên chấp nhận việc thỏa thuận trực tiếp và rõ ràng về các trường hợp miễn trách nhiệm, vì có thể bên vi phạm sẽ dựa vào điều này để không tuân thủ hợp đồng. Ngoài ra, vì mục đích hợp đồng là các bên thực hiện nghĩa vụ và bên còn lại nhận quyền lợi, do đó, trong trường hợp nào khi hợp đồng không được thực hiện thì sẽ phát sinh một số thiệt hại nhất định cho bên bị vi phạm hợp đồng. Vậy nên không chủ thể ký kết hợp đồng nào muốn quy định về điều này, các bên có thể thỏa thuận gián tiếp miễn trách nhiệm ở một chừng mực nhất định.

Trường hợp miễn trách nhiệm vi phạm hợp đồng vì xảy ra sự kiện bất khả kháng:

Bên không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng phải có thông báo ngay về việc không phải chịu trách nhiệm do sự kiện bất khả kháng cho bên kia, việc thông báo phải được thực hiện bằng hình thức văn bản. Bên không phải chịu trách nhiệm phải chứng minh hoặc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền tại nơi xảy ra sự kiện bất khả kháng xác nhận về trường hợp này. Giới hạn của việc áp dụng trường hợp không chịu trách nhiệm do bên không thực hiện hợp đồng do sự kiện bất khả kháng được quyền chấm dứt việc thực hiện hợp đồng và không phải chịu bất kỳ trách nhiệm nào từ hợp đồng. Hơn nữa, nếu không muốn chấm dứt hợp đồng thì các bên thỏa thuận thời gian để tiếp tục thực hiện nghĩa vụ với nhau. Điều này phù hợp với khoản a ở trên, tôn trọng thỏa thuận hai bên

Luật thương mại hiện hành không giải thích thế nào là sự kiện bất khả kháng. Xét theo mối quan hệ giữa luật chung và luật riêng, trong đó luật thương mại là luật riêng trong lĩnh vực thương mại, còn Bộ luật dân sự là luật chung, có thể dẫn chiếu quy định của Bộ luật dân sự về sự kiện bất khả kháng để áp dụng trong lĩnh vực thương mại.

Tại khoản 1 điều 161 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “… Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”. Với việc quy định theo phương pháp trừu tượng hoá như vậy của Bộ luật dân sự thì việc hiểu rõ nội hàm của khái niệm sự kiện bất khả kháng và việc áp dụng nó là rất khó, từ đó xét đến quá trình áp dụng pháp luật cũng gặp nhiều khó khăn khi có nhiều cách hiểu khác nhau và chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết nào bổ sung thêm.

Nếu trong trường hợp các nước thừa nhận án lệ là một nguồn luật thì các bản án của toà án có liên quan đến vấn đề này sẽ là nguồn luật giải thích một cách cụ thể sự kiện bất khả kháng trong thực tế. Thế nhưng, pháp luật Việt Nam chỉ thừa nhận một nguồn luật duy nhất là văn bản pháp luật, không thừa nhận án lệ thì cách giải thích hoặc hiểu theo khía cạnh thực tiễn chỉ có giá trị tham khảo. Theo thông lệ chung, sự kiện bất khả kháng, có thể hiểu thường được hiểu có thể là những hiện tượng do thiên nhiên gây ra (thiên tai) như lũ lụt, hỏa hoạn, bão, động đất, sóng thần… hoặc các hiện tượng xã hội như chiến tranh, bạo loạn, đảo chính, đình công, cấm vận, thay đổi chính sách của chính phủ… Tất nhiên việc chứng minh có tồn tại sự kiện bất khả kháng thuộc về nghĩa vụ của bên vi phạm hợp đồng, nhưng việc bên đó được hay không được miễn trừ lại phụ thuộc vào bên bị vi phạm hoặc cơ quan chức năng có chấp nhận nó là sự kiện bất khả kháng hay không. Với mỗi sự việc trên, mỗi người sẽ có cách nhìn nhận khác nhau, cùng một sự kiện nhưng đến mức độ nào, cần đủ những điều kiện gì, nghiêm trọng như thế nào thì được xem là bất khả kháng? Với một khái niệm còn quá khái quát như vậy thì đương nhiên việc tìm được tiếng nói chung giữa các bên là không hề dễ dàng.

Tuy nhiên, bằng sự phân tích quy định và thực tế, chúng ta có thể phân tích theo góc độ trên và đưa ra một số đặc điểm để được xem là sự kiện bất khả kháng thì sự kiện đó phải thỏa mãn các nội dung sau:

Thứ nhất, là sự kiện khách quan xảy ra sau khi ký hợp đồng. Tức là sự kiện nằm ngoài sự kiểm soát của bên vi phạm hợp đồng như các hiện tượng tự nhiên; các sự kiện chính trị, xã hội; hoặc trường hợp như hỏa hoạn phát sinh từ bên ngoài lan sang và thiêu trụi nhà máy…

Thứ hai, là sự kiện xảy ra không thể dự đoán trước được. Năng lực đánh giá xem xét đánh giá một sự kiện có xảy ra hay không được xét từ vị trí một thương nhân bình thường chứ không phải một chuyên gia chuyên sâu. Ví dụ khu vực nhà máy của bên vi phạm thường xuyên có bão vào mùa mưa nhưng do tính bất ngờ và khó kiểm soát nên việc dự đoán bão có xảy ra hay không đối với một thương nhân là không thể lường trước được.

Thứ ba, là sự kiện xảy ra mà hậu quả để lại không khắc phục được dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép, là sự kiện xảy ra mà chúng ta không thể tránh được về mặt hậu quả. Tức là sau khi bên vi phạm đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết nhưng vẫn không khắc phục được hậu quả thì mới đáp ứng điều kiện này. Tuy nhiên, nếu như bên vi phạm không thực hiện các biện pháp cần thiết để khắc phục hậu quả nhưng chứng minh được rằng dù có hành động vẫn không khắc phục được hậu quả thì xem như đã thỏa mãn điều kiện này.

Ngoài ra, Điều 294 chỉ quy định chung chung sự kiện bất khả kháng là điều kiện để bên vi phạm được miễn trách nhiệm nhưng chưa nêu bật được mối quan hệ nhân quả giữa sự kiện bất khả kháng và hành vi vi phạm hợp đồng. Về bản chất, để có thể được miễn trách nhiệm, sự kiện bất khả kháng phải xảy ra sau khi các bên ký hợp đồng và sự kiện bất khả kháng phải là nguyên nhân dẫn đến kết quả là bên vi phạm không thể thực hiện được theo đúng cam kết. Ở đây, rõ ràng điều 294 chưa thể hiện được mối quan hệ đó.

Bất khả kháng là sự kiện làm cho một bên không thể thực hiện được nghĩa vụ của mình. Về hậu quả, khi xảy ra sự kiện bất khả kháng, bên vi phạm được hoàn toàn miễn trách nhiệm hoặc các bên có thể thoả thuận gia hạn một khoảng thời gian hợp lý để tiếp tục thực hiện hợp đồng khi sự kiện bất khả kháng kết thúc. Do đó mà bên vi phạm hợp đồng không phải chịu bất cứ chế tài gì. Đối với hoàn cảnh khó khăn, các bên vẫn phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ của mình.

Vì vậy, đối với các hợp đồng thương mại có yếu tố nước ngoài, về nguyên tắc, pháp luật nước ngoài và tập quán thương mại quốc tế có thể được áp dụng. Tuy nhiên, trong trường hợp xảy ra các trường hợp khó khăn nói ở trên khi thực hiện hợp đồng, các bên rất khó có thể yêu cầu Toà án, trọng tài thương mại của Việt Nam có tiến hành các thủ tục tố tụng để sửa đổi các điều khoản của hợp đồng, từ đó thiết lập một trạng thái cân bằng mới theo xu hướng có lợi cho các bên hoặc tuyên bố chấm hợp đồng. Đối với hợp đồng thương mại không có yếu tố nước ngoài thì rõ ràng phải áp dụng pháp luật Việt Nam, mà pháp luật hiện hành thì lại chưa có quy định cụ thể. Trong bối cảnh kinh tế Việt Nam đang rơi vào chu kỳ khó khăn. Tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đình đốn, hàng tồn kho nhiều, nợ khó đòi có xu hướng tăng lên. Nếu pháp luật Việt Nam có cơ chế giảm hoặc giúp thương nhân gỡ bỏ trách nhiệm bằng việc quy định về hoàn cảnh khó khăn thì chắc chắn rằng, khả năng phục hồi hoạt động của các doanh nghiệp sẽ nhanh hơn và giao lưu thương mại sẽ phát triển theo xu hướng tích cực và năng động hơn rất nhiều.

Khi xảy ra sự việc bất khả kháng, các bên có thể thỏa thuận kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng; trừ các hợp đồng mua bán hàng hóa, cũng ứng dịch vụ có thời hạn cố định về giao hàng hoặc hoàn thành dịch vụ. Nếu các bên không có thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được thì thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng được tính thêm một khoảng thời gian bằng thời gian xảy ra trường hợp bất khả kháng cộng với thời gian để khắc phục hậu quả theo quy định tại Điểm a, b Khoản 1 Điều 296 Luật Thương mại 2005:

“a) Năm tháng đối với hàng hoá, dịch vụ mà thời hạn giao hàng, cung ứng dịch vụ được thoả thuận không quá mười hai tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng;

b) Tám tháng đối với hàng hoá, dịch vụ mà thời hạn giao hàng, cung ứng dịch vụ được thoả thuận trên mười hai tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng.”

Tuy nhiên, nếu sự kiện bất khả kháng kéo dài quá thời gian nêu trên thì các bên có quyền từ chối thực hiện hợp đồng và không bên nào có quyền yêu cầu bên kia bồi thường thiệt hại. Bên từ chối thực hiện hợp đồng phải thông báo cho bên kia biết trước khi bên kia bắt đầu thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng trong thời hạn 10 ngày.

Trường hợp miễn trách nhiệm vi phạm hợp đồng nếu hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia:

Trường hợp miễn trách nhiệm này được quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 294 Luật thương mại 2005. Theo nguyên tắc chung, mọi trách nhiệm pháp lý đều phải có yếu tố lỗi. Theo đó, nếu một bên vi phạm hợp đồng nhưng việc vi phạm mà là do lỗi của bên kia thì bên vi phạm hợp đồng sẽ được miễn trách nhiệm đối với vi phạm đó. Như vậy, căn cứ để miễn trách nhiệm trong trường hợp này là phải do lỗi của bên kia. Lỗi này có thể hành động hoặc không hành động của bên bị vi phạm. Mặc dù ở đây bên vi phạm đã vi phạm hợp đồng nhưng nguyên nhân gây ra là do bên kia. Yếu tố lỗi trong trường hợp này đặt ra với phía bên không có hành vi vi phạm. Như vậy, bên có hành vi vi phạm sẽ không phải chịu trách nhiệm hợp đồng nếu không có lỗi. Bên vi phạm hợp đồng tự chứng minh mình không có lỗi và lỗi đấy là do phía bên kia. Nếu không có lỗi thì sẽ không phải chịu trách nhiệm, trừ một số trường hợp khác. Trường hợp này nguyên nhân chính gây ra sự vi phạm là do hành vi cố ý của phía bên kia, cho nên bên vi phạm không phải chịu trách nhiệm có nghĩa là trường hợp này bên vi phạm sẽ mặc nhiên được miễn trách nhiệm.

Bên không thực hiện được nghĩa vụ hợp đồng do hành vi của bên kia phải thông báo bằng văn bản về việc sẽ không thực hiện hợp đồng và đồng thời sẽ không chịu trách nhiệm hợp đồng; Bên này phải chứng minh việc không thực hiện hợp đồng là do bên kia ngăn chặn, cản trở trong quá trình thực hiện hợp đồng. Hợp đồng sẽ bị chấm dứt ngay mà không có sự thỏa thuận lại của các bên. Ở đây, cho chúng ta thấy lỗi không là yếu tố để xác định trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, nhưng được đề cập trong khi áp dụng các trường hợp không chịu trách nhiệm do không thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng, đây là điểm khá hợp lý.

Điều 294 mới dự liệu miễn trách nhiệm đối với bên vi phạm hợp đồng khi “Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia” mà chưa tính đến khả năng hành vi vi phạm của một bên có nguyên nhân xuất phát từ bên thứ ba, mà bên này rơi vào các trường hợp mà pháp luật quy định được miễn trách nhiệm. Đành rằng, các bên có thể thoả thuận về các trường hợp miễn trách nhiệm trong hợp đồng của họ. Nhưng trong trường hợp không được thoả thuận, đương nhiên bên vi phạm sẽ không được miễn trách nhiệm nếu do lỗi của bên thứ ba, mặc dù bên này rơi vào các trường hợp miễn trách nhiệm. Về vấn đề này, có vẻ như Luật thương mại 2005 cứng nhắc hơn so với Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989, một văn bản pháp luật điều chỉnh hợp đồng kinh tế trong không gian và thời gian của cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung.

Tại Điều 40 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định:

“Bên vi phạm hợp đồng kinh tế được xét giảm hoặc miễn hoàn toàn trách nhiệm tài sản trong các trường hợp sau đây: 1) Gặp thiên tai, địch hoạ và các trở lực khách quan khác không thể lường trước được và đã thi hành mọi biện pháp cần thiết để khắc phục ; 2) Phải thi hành lệnh khẩn cấp của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; 3) Do bên thứ ba vi phạm hợp đồng kinh tế với bên vi phạm nhưng bên thứ ba không phải chịu trách nhiệm tài sản trong các trường hợp quy định tại điểm 1 và điểm 2 của điều này…

Tất cả các luật quy định về hợp đồng sau này như Bộ luật dân sự 1995, Luật thương mại 1997, Bộ luật dân sự 2005, Luật thương mại 2005 đã không kế thừa sự tiến bộ này mà lại loại bỏ nó ra khỏi các trường hợp miễn trách nhiệm được quy định trong luật.

Tương tự với trường hợp trên, pháp luật thương mại hiện hành nói chung và điều 294 Luật thương mại nói riêng cũng chưa dự liệu trường hợp miễn trách nhiệm do một bên uỷ quyền cho bên thứ ba thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng mà bên thứ ba này vi phạm nghĩa vụ trong một số trường hợp cụ thể. Nếu trong trường hợp CISG 1980 trở thành nguồn luật để điều chỉnh đối với hợp đồng trong một số trường hợp được áp dụng thì vấn đề này sẽ được giải quyết tại Ðiều 79. Theo điều này của CISG, nếu một bên không thực hiện nghĩa vụ của mình do người thứ ba mà họ nhờ thực hiện toàn phần hay một phần hợp đồng cũng không thực hiện điều đó, thì bên ấy chỉ được miễn trách nhiệm trong trường hợp bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm chiếu theo quy định của công ước và người thứ ba cũng sẽ được miễn trách nếu các quy định của công ước được áp dụng cho họ10. Hiện tại Việt Nam vẫn chưa là thành viên của CISG 1980, mặc dù nó vẫn có thể được áp dụng tại Việt Nam trong một số trường hợp nhất định, nhưng về cơ bản CISG vẫn chưa là nguồn của pháp luật thương mại Việt Nam

Phân tích hợp đồng thương mại và các hành vi vi phạm hợp đồng thương mại
Phân tích hợp đồng thương mại và các hành vi vi phạm hợp đồng thương mại

2.4. Trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng:

Miễn trách nhiệm chỉ được áp dụng khi hành vi vi phạm do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng. Nếu như các bên đã biết về việc thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền có thể dẫn đến vi phạm hợp đồng mà vẫn đồng ý giao kết hợp đồng thì không được áp dụng miễn trách nhiệm. Quyết định của cơ quan nhà nước phải làm phát sinh nghĩa vụ của bên vi phạm, tức là phải thực hiện hoặc không thực hiện một hành vi nhất định nào đó dẫn tới hành vi vi phạm hợp đồng.

Việc miễn trách nhiệm được áp dụng khi “hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng” tại điều 294 cũng rất khó hiểu và khó áp dụng. “Các bên” ở trong trường hợp này có nghĩa là cả bên vi phạm và bên bị vi phạm, thế nhưng việc không thể biết quyết định cơ quan nhà nước có thẩm quyền dẫn đến vi phạm hợp đồng chỉ có ý nghĩa đối với bên vi phạm hợp đồng, từ đó khẳng định bên vi phạm hợp đồng không có “lỗi”. Việc bên bị vi phạm có biết hay không thì về bản chất không ảnh hưởng gì đến thái độ của bên vi phạm hợp đồng. Giả sử bên bị vi phạm hợp đồng khi ký hợp đồng biết trước có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền chắc chắn dẫn đến việc vi phạm hợp đồng và cứ ký hợp đồng trong khi bên vi phạm hợp đồng không hề biết. Vậy khi có hành vi vi phạm hợp đồng do thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước, bên vi phạm hợp đồng có được miễn trách nhiệm hay không khi bên bị vi phạm chứng minh được mình biết trước quyết định đó? Thêm vào nữa, hiểu thế nào là “không thể biết” để từ đó được miễn trách nhiệm đối với trường hợp này cũng còn quá chung chung. Việc biết sự tồn tại của quyết định của cơ quan nhà nước có buộc phải theo một “kênh chính thống” hay có thể biết bằng nhiều cách khác nhau? Cơ quan quản lý nhà nước có phải thông báo bằng văn bản hay chỉ cần thông báo bằng miệng về quyết định đó thì thương nhân mới “biết”, hay nếu bên bị vi phạm chỉ cần chứng minh các bên biết sự tồn tại của quyết định đó, bất kể “biết” theo kiểu gì, “biết” bằng cách nào cũng đều là chứng cứ để bên vi phạm phải gánh chịu trách nhiệm?

Như đã nói ở trên, hành vi vi phạm phải có yếu tố lỗi thì mới phải chịu trách nhiệm. Ở trường hợp trên, bên vi phạm vi phạm hợp đồng là do lỗi của bên kia. Còn ở trường hợp này, bên vi phạm vi phạm hợp đồng là do bên vi phạm phải thực hiện một quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, nhưng điều lưu ý ở đây là các bên không hề biết được quyết định của cơ quan quản lý nhà nước vào thời điểm giao kết hợp đồng. Nói theo cách khác thì đây cũng không phải là cơ quan quản lý nhà nước đã gây ra lỗi trong trường hợp này.

Mà vì lý do nào đấy, để quản lý nhà nước, đảm bảo trật tự xã hội, đảm bảo an ninh cho đất nước, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ra quyết định. Và chính quyết định này đã khiến cho một bên trong hợp đồng vi phạm hợp đồng. Nhưng đây không phải lỗi do bên vi phạm cho nên bên vi phạm sẽ được miễn trách nhiệm. Gắn thêm điều kiện là các bên khi giao kết hợp đồng, các bên không thể biết được quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Có thể hiểu là cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định khiến cho một bên vi phạm hợp đồng xảy ra sau khi hay bên đã giao kết hợp đồng. Thì điều đấy hiển nhiên các bên phải chấp nhận, vì đây là sự kiện không nằm trọng dự tính, xảy ra bất ngờ nên đã không thể khắc phục được và đã dẫn đến có sự vi phạm hợp đồng. Và quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền không phải bắt nguồn từ việc nguyên nhân là từ phía bên vi phạm. Ví dụ như cơ quan có thẩm quyền đã ra quyết định niêm phong xưởng sản xuất công ty A vì lý do đã nợ ngân hàng quá hạn, việc niêm phong xưởng sản xuất công ty A khiến công ty A không thể sản xuất đủ số lượng hàng để chuyển giao cho công ty B. Ở ví dụ này thì đây không phải là trường hợp được miễn trách nhiệm. Những quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xuất phát từ mục đích bảo đảm an ninh – quốc phòng, trật tự quốc gia…

Tóm lại, pháp luật đã quy định về các trường hợp miễn trách nhiệm vi phạm hợp đồng thương mại nhằm bảo đảm quyền lợi cho các các bên tham gia, giúp quy định về trách nhiệm vi phạm hợp đồng trở nên đầy đủ hơn và có sự phù hợp với thực tiễn. Bên cạnh đó vẫn còn một số vấn đề chưa thực rõ ràng gây khó khăn trong hoạt động áp dụng pháp luật, để giảm thiểu rủi ro từ hợp đồng trong thương mại, việc các thương nhân thoả thuận cụ thể về các trường hợp miễn trách nhiệm trong hợp đồng có một ý nghĩa rất quan trọng. Trên cơ sở tham khảo các quy định của pháp luật Việt Nam, hệ thống pháp luật quốc tế và các tập quán thương mại quốc tế, các bên hoàn toàn có thể chủ động thoả thuận trong hợp đồng tất cả các điều khoản, kể cả các trường hợp miễn trách nhiệm trên cơ sở không trái với pháp luật hoặc đạo đức xã hội để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.


Trên đây là toàn bộ thông tin mà chúng tôi cung cấp đến bạn về vấn đề: Phân tích hợp đồng thương mại và các hành vi vi phạm hợp đồng thương mại. Để được tư vấn cụ thể hơn bạn vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn luật trực tuyến qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy.

Trân trọng./.

phone-call

GỌI HỎI ĐÁP MIỄN PHÍ

Scroll to Top