Trong điều kiện phát triển của kinh tế thị trường, các hoạt động thương mại phát triển phong phú, đa dạng và đan xen lẫn nhau. Việc một thương nhân, chỉ bằng năng lực của mình, thực hiện tất cả các quá trình giao lưu thương mại ngày càng trở nên ít dần. Để chuyển hàng hóa từ nơi sản xuất đến người tiêu dùng phải trải qua rất nhiều công đoạn. Nếu tự mình tiến hành tất cả các công việc nêu trên thì thương nhân không đủ năng lực chuyên môn cũng như kinh phí. Do vậy dịch vụ logistics ra đời.
Hiểu được vai trò quan trọng của logistics trong thương mại nói riêng và trong nền kinh tế nói chung, em xin chọn đề bài số 7: “Dịch vụ logistics bao gồm chuỗi các dịch vụ”. Anh (chị) bình luận ý kiến trên.”
Danh mục tài liệu tham khảo:
- Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại (tập 2), Nguyễn Viết Tý (chủ biên), Nxb. CAND, Hà Nội, 2014.
- Luật Thương Mại 2005.
- Nghị định của Chính Phủ số 140/2007/NĐ-CP ngày 05/09/2007 quy định chi tiết Luật Thương Mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics.
Khái niệm và các đặc trưng pháp lý của dịch vụ Logistics
Khái niệm
Logistics được phát minh và ứng dụng lần đầu tiên không phải trong hoạt động thương mại mà là trong lĩnh vực quân sự. Logistics được các quốc gia ứng dụng rất rộng rãi trong 2 cuộc Đại chiến thế giới để di chuyển lực lượng quân đội cùng với vũ khí có khối lượng lớn và đảm bảo hậu cần cho lực lượng tham chiến. Hiệu quả của hoạt động logistics, do đó là yếu tố có tác động rất lớn tới thành bại trên chiến trư Trải qua dòng chảy lịch sử, logistics được nghiên cứu và áp dụng sang lĩnh vực kinh doanh. Dưới góc độ doanh nghiệp, thuật ngữ “logistics” thường được hiểu là hoạt động quản lý chuỗi cung ứng (supply chain management) hay quản lý hệ thống phân phối vật chất (physical distribution management) của doanh nghiệp đó. Có rất nhiều khái niệm khác nhau về logistics trên thế giới và được xây dựng căn cứ trên ngành nghề và mục đích nghiên cứu về dịch vụ logistics, tuy nhiên, có thể nêu một số khái niệm chủ yếu sau:
Liên Hợp Quốc(Khóa đào tạo quốc tế về vận tải đa phương thức và quản lý logistics, Đại học Ngoại Thương, tháng 10/2002): Logistics là hoạt động quản lý quá trình lưu chuyển nguyên vật liệu qua các khâu lưu kho, sản xuất ra sản phẩm cho tới tay người tiêu dùng theo yêu cầu của khách hàng;
Ủy ban Quản lý logistics của Hoa Kỳ: Logistics là quá trình lập kế hoạch, chọn phương án tối ưu để thực hiện việc quản lý, kiểm soát việc di chuyển và bảo quản có hiệu quả về chi phí và ngắn nhất về thời gian đối với nguyên vật liệu, bán thành phẩm và thành phẩm, cũng như các thông tin tương ứng từ giai đoạn tiền sản xuất cho đến khi hàng hóa đến tay người tiêu dùng cuối cùng để đáp ứng yêu cầu của khách hàng;
Hội đồng quản trị logistics Hoa Kỳ-1988: Logistics là quá trình liên kế hoạch, thực hiện và kiểm soát hiệu quả, tiết kiệm chi phí của dòng lưu chuyển và lưu trữ nguyên vật liệu, hàng tồn, thành phẩm và các thông tin liên quan từ điểm xuất xứ đến điểm tiêu thụ, nhằm mục đích thỏa mãn những yêu cầu của khách hàng;
Trong lĩnh vực quân sự, logistics được định nghĩa là khoa học của việc lập kế hoạch và tiến hành di chuyển và tập trung các lực lượng, … các mặt trong chiến dịch quân sự liên quan tới việc thiết kế và phát triển, mua lại, lưu kho, di chuyển, phân phối, tập trung, sắp đặt và di chuyển khí tài, trang thiết bị;
Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 (Điều 233): Trong Luật Thương mại 2005, lần đầu tiên khái niệm về dịch vụ logistics được pháp điển hóa. Luật quy định “Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công đoạn bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hạng hoặc các dịch vụ khác có liên quan tới hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao”.

Đặc trưng pháp lý
Thứ nhất: Chủ thể của quan hệ dịch vụ gồm hai bên. Người làm dịch vụ logistics và khách hàng. Người làm dịch vụ phải là thương nhân, có đăng kí kinh doanh để thực hiện dịch vụ logistics. Thủ tục đăng kí kinh doanh được thực hiện theo các đạo luật đơn hành, phụ thuộc vào hình thức pháp lí cùa thương nhân. Bằng chứng của việc đăng kí kinh doanh là thương nhân này được cơ quan đăng kí kinh doanh cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, trong đó ghi rõ ngành nghề king doanh là dịch vụ logistics.
Bình luận ý kiến về dịch vụ logistics bao gồm chuỗi các dịch vụ
Khách hàng là những người có hàng hóa cần gửi hoặc cần nhận và có nhu cầu sử dụng dịch vụ giao nhận. Khách hàng có thể là người vận chuyển hoặc thậm chí có thể là ngườ làm dịch vụ logistics khác. Như vậy, khách hàng có thể là thương nhân hoặc không phải là thương nhân; có thể là chủ sở hữu hàng hóa hoặc không phải là chủ sở hữu hàng hóa.
Thứ hai: Nội dung của dịch vụ logistics rất đa dạng.
Thứ ba: Dịch vụ logistics là một loại hoạt động dịch vụ. Thương nhân kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa được khách hàng trả tiền công và các khoản chi phí hợp lý khác từ việc cung ứng dịch vụ.
Logistics tồn tại để cung cấp dịch vụ cho doanh nghiệp hoặc cho khách hàng của doanh nghiệp, dịch vụ, đối với cả doanh nghiệp hay khách hàng đều được cung cấp thông qua việc tập trung các yếu tố khác nhau, các yếu tố này là các bộ phận tạo thành chuỗi logistics.
Dịch vụ logistics trong doanh nghiệp chú trọng đến các yếu tố về quản trị nguyên vật liệu, lưu kho trong nhà máy và phân phối vật chất. Tuy nhiên trong hoạt động của doanh nghiệp không phải chỉ dừng lại ở yêu cầu các yếu tố cơ bản mà dịch vụ logistics cung cấp trên đây mà có thể cần cung cấp thêm các dịch vụ khác của logistics.
Ngoài ra, logistics còn có các đặc điểm sau:
Logistics là sự phát triển cao, hoàn chỉnh của dịch vụ vận tải và giao nhận:
Logistics là sự phát triển của dịch vụ vận tải giao nhận ở trình độ cao và hoàn thiện. Qua các giai đoạn phát triển, logistics đã làm cho khái niệm vận tải giao nhận truyền thống ngày càng đa dạng và phong phú thêm. Từ chỗ thay mặt khách hàng để thực hiện các công việc đơn điệu, lẻ tẻ, tách biệt như : thuê tàu, lưu cước, chuẩn bị hàng, đóng gói, tái chế hàng, làm thủ tục thông quan.. cho tới cung cấp trọn gói một dịch vụ vận chuyển từ kho đến kho (Door to Door) đúng nơi, đúng lúc để phục vụ nhu cầu khách hàng. Từ chỗ đóng vai tròngười được ủy thác trở thành một bên chính trong các hoạt động vận tải giao nhận với khách hàng, chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi của mình.
Nếu như trước kia chỉ cần dăm ba xe tải, một vài kho chứa hàng…là có thể triển khai cung cấp dịch vụ vận tải giao nhận cho khách hàng thìngày nay, do yêu cầu về dịch vụ cung cấp cho khách hàng ngày càng đa dạng, phong phú, người cung cấp dịch vụ phải tổ chức quản lý một hệ thống đồng bộ từ giao nhận đến vận tải, cung ứng nguyên liệu phục vụ sản xuất kinh doanh, bảo quản hàng hóa trong kho, phân phối hàng hóa đúng nơi, đúng lúc, sử dụng thông tin điện tử để theo dõi , kiểm tra…
Logistics là sự phát triển hoàn thiện dịch vụ vận tải đa phương thức:
Dịch vụ logistics chính là sự phát triển sâu rộng của dịch vụ vận tải đa phương thức. Toàn bộ hoạt động vận tải có thể được thực hiện theo một hợp đồng vận tải đa phương thức do người tổ chức mọi dịch vụ logistics đảm nhiệm.
Điểm giống nhau ở chỗ, trên cơ sở nhiều hợp đồng mua bán, người tổ chức dịch vụ logistics sẽ nhận hàng tại cơ sở của từng người bán, gom hàng thành nhiều đơn vị, gửi hàng tại kho hay nơi xếp dỡ hàng trước khi chúng được gửi đến nước người mua trên các phương tiện vận tải khác nhau. Tại nước người mua, người tổ chức dịch vụ logistics sẽ thu xếp tách các đơn vị gửi hàng và hình thành các chuyến hàng thích hợp để phân phối đi đến những địa điểm cuối cùng theo yêu cầu khách hàng.
Tóm lại, logistics là sự phối hợp đồng bộ các hoạt động, là sự phát triển cao, hoàn thiện của dịch vụ giao nhận vận tải và là sự phát triển khéo léo của dịch vụ vận tải đa phương thức.
Vai trò dịch vụ logistics
Logistics thương mại đóng một vai trò rất quan trọng trong việc tạo thuận lợi cho thương mại nói riêng và cho việc phát triển kinh tế của một quốc gia nói chung. Nó là huyết mạch trong toàn bộ quá trình lưu thông hàng hóa nội địa và quốc tế. Cụ thể:
Dịch vụ logistics có tác dụng tiết kiệm, giảm chi phí trong quá trình lưu thông phân phối (ở đây, chủ yếu là phí vận tải chiếm tỷ lệ lớn, chi phí này cấu thành giá cả hàng hóa trên thị trường. Dịch vụ logistics càng hoàn thiện và hiện đại sẽ tiết kiệm cho chi phí vận tải và các chi phí khác phát sinh trong quá trình lưu thông.Do đó, giảm thiểu được chi phí này sẽ góp phần làm cho giá cả hàng hóa trên thị trường giảm xuống, mang lại nhiều lợi ích cho khách hàng, tăng yếu tố cạnh tranh trong các doanh nghiệp.
Dịch vụ logistics góp phần mở rộng thị trường trong buôn bán quốc tế. Các nhà sản xuất muốn chiếm lĩnh và mở rộng thị trường cho sản phẩm của mình phải cần sự hỗ trợ của dịch vụ logistics. Dịch vụ này có tác dụng như cầu nối trong vận chuyển hàng hóa trên các tuyến đường đến các thị trường mới đúng yêu cầu về thời gian và địa điểm đặt ra. Nên doanh nghiệp có thể khai thác và mở rộng thị trường nhanh và mạnh hơn.
- Dịch vụ logistics góp phần giảm chi phí, hoàn thiện và tiêu chuẩn hóa chứng từ kinh doanh quốc tế.
- Dịch vụ logistics góp phần nâng cao hiệu quả pháp lý. giảm thiểu chi phí trong quá trình sản xuất, tăng cường sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
- Dịch vụ logistics góp phàn gia tăng giá trị kinh doanh của các doanh nghiệp giao nhận.
Bình luận ý kiến cho rằng “Dịch vụ logistics bao gồm chuỗi các dịch vụ”
Qua các định nghĩavà đặc trưng trên cho thấy, logistics không phải là một dịch vụ đơn lẻ. Logistics luôn là một chuỗi các dịch vụ về giao nhận hàng hóa như: làm các thủ tục giấy tờ, tổ chức vận tải, bao bì đóng gói, ghi nhãn hiệu, lưu kho, lưu bãi, phân phát hàng hóa (nguyên liệu hay thành phẩm) tới các địa chỉ khác nhau. Chính vì vậy, nói tới logistics người ta bao giờ cũng nói tới một chuỗi hệ thống dịch vụ (logistics system chain). Logistics chính là quá trình tối ưu hóa mọi công việc, hoặc thao tác từ khâu cung ứng, sản xuất, phân phối và tiêu dùng.
Nội dung của dịch vụ logistics
Nhận hàng từ người gửi để vận chuyển: đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, chuyển hàng từ kho của người gửi tới cảng, bến tàu, bến xe và địa điểm giao hàng khác nhau theo thỏa thận giữa người vận chuyển với người thuê vận chuyển.
Làm các thủ tục giấy tờ cần thiết (thủ tục hải quan, vận đơn vận chuyển, làm thủ tục gửi giữ hàng hóa làm các thủ tục nhận hàng…) để gửi hàng hóa hoặc nhận hàng hóa được vận chuyển đến.
Giao hàng hóa cho người vận chuyển, xếp hàng hóa lên phương tiện vận chuyển theo quy định, nhận hàng hóa được vận chuyển đến.
Tổ chức nhận hàng, lưu kho, lưu bãi, bảo quản hàng hóa hoặc thực hiện giao hàng hóa được vận chuyển đến cho người có quyền nhận hàng.
Như vậy, dịch vụ logistics là một loại hoạt động dịch vụ, bởi lẽ: Thương nhân kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa được khách hàng trả tiền công và các khoản chi phí hợp lý khác từ việc cung ứng dịch vụ. Đây là một loại dịch vụ mang tính liên hoàn, chuỗi các dịch vụ gắn kết tương đối chặt chẽ với nhau.

Các hoạt động của dịch vụ logistics
Theo pháp luật Việt Nam, tại Điều 4 Nghị định 140/2007/NĐ-CP ngày 5/9/2007 quy định chi tiết LTM về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách nhiệm thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics về phân loại dịch vụ logistics: “Dịch vụ logistics theo quy định tại Điều 233 LTM được phân loại như sau:
Các dịch vụ lô-gi-stíc chủ yếu, bao gồm:
a) Dịch vụ bốc xếp hàng hóa, bao gồm cả hoạt động bốc xếp container;
b) Dịch vụ kho bãi và lưu giữ hàng hóa, bao gồm cả hoạt động kinh doanh kho bãi container và kho xử lý nguyên liệu, thiết bị;
c) Dịch vụ đại lý vận tải, bao gồm cả hoạt động đại lý làm thủ tục hải quan và lập kế hoạch bốc dỡ hàng hóa;
d) Dịch vụ bổ trợ khác, bao gồm cả hoạt động tiếp nhận, lưu kho và quản lý thông tin liên quan đến vận chuyển và lưu kho hàng hóa trong suốt cả chuỗi lô-gi-stíc; hoạt động xử lý lại hàng hóa bị khách hàng trả lại, hàng hóa tồn kho, hàng hóa quá hạn, lỗi mốt và tái phân phối hàng hóa đó; hoạt động cho thuê và thuê mua container.
Các dịch vụ lô-gi-stíc liên quan đến vận tải, bao gồm:
a) Dịch vụ vận tải hàng hải;
b) Dịch vụ vận tải thủy nội địa;
c) Dịch vụ vận tải hàng không;
d) Dịch vụ vận tải đường sắt;
đ) Dịch vụ vận tải đường bộ;
e) Dịch vụ vận tải đường ống.
Các dịch vụ lô-gi-stíc liên quan khác, bao gồm:
a) Dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật;
b) Dịch vụ bưu chính;
c) Dịch vụ thương mại bán buôn;
d) Dịch vụ thương mại bán lẻ, bao gồm cả hoạt động quản lý hàng lưu kho, thu gom, tập hợp, phân loại hàng hóa, phân phối lại và giao hàng;
đ) Các dịch vụ hỗ trợ vận tải khác.”
Theo quy định của pháp luật hiện hành ta có thể thấy rằng logistics ở Việt Nam bao gồm rất nhiều các hoạt động đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, nó không tách rời và đơn lẻ mà chúng thống nhất tạo thành một chuỗi gắn kết quá trình thương mại từ khâu sản xuất đến tiêu dùng.
Hiện nay, tại Việt Nam có rất nhiều các công ty logistics cung cấp một chuỗi các dịch vụ. Ví dụ như Công ty cổ phần Logistics Vinalink có các dịch vụ như Giao nhận vận chuyển đường không, đường biển, dịch vụ kho bãi, khai thuê hải quan, xuất nhập khẩu, bảo hiểm hàng hóa,.. Hay điển hình như Công Ty TNHH Dịch Vụ Và Thương Mại Quốc Tế Ánh Kim cung cấp chuỗi các dịch vụ bao gồm vận chuyển nội địa, quốc tế đa phương thức: Đường bộ, đường thủy, đường hàng không; Dịch vụ hải quan, khai thuê hải quan, ủy thác XNK hàng hóa, đại lý cước; Dịch vụ bốc xếp, xếp dỡ, giao nhận hàng hóa tại các công ty, xí nghiệp, kho bãi,..
Tuy nhiên, ta cần có sự phân biệt giữa hai khái niệm logistics với chuỗi cung ứng dịch vụ.
Chuỗi cung ứng dịch vụ là một hệ thống các tổ chức, con người, hoạt động, thông tin và các nguồn lực liên quan tới việc chuyển sản phẩm hay dịch vụ từ nhà cung cấp (chuỗi cung ứng) đến khách hàng. Hoạt động chuỗi cung ứng liên quan đến chuyển đổi các tài nguyên thiên nhiên, nguyên liệu và các thành phần thành một sản phẩm hoàn chỉnh để giao cho khách hàng cuối cùng. Trong các hệ thống chuỗi cung ứng phức tạp, các sản phẩm được sử dụng có thể tái nhập vào chuỗi cung ứng tại bất kỳ điểm nào giá trị còn lại có thể tái chế được. Chuỗi cung ứng liên kết các chuỗi giá trị. Nó bao gồm hoạch định và quản lý tất cả các hoạt động liên quan đến tìm nguồn cung cấp, mua hàng, sản xuất và tất cả các hoạt động quản trị logistics. Ở mức độ quan trọng, quản trị chuỗi cung ứng bao gồm sự phối hợp và cộng tác của các đối tác trên cùng một kênh như nhà cung cấp, bên trung gian, các nhà cung cấp dịch vụ, khách hàng. Về cơ bản, quản trị chuỗi cung ứng sẽ tích hợp vấn đề quản trị cung cầu bên trong công ty và giữa các công ty với nhau. Quản trị chuỗi cung ứng là một chức năng tích hợp với vai trò đầu tiên là kết nối các chức năng kinh doanh và các quy trình kinh doanh chính yếu bên trong công ty và của các công ty với nhau thành một mô hình kinh doanh hiệu quả cao và gắn bó. Bên cạnh đó, còn là những hoạt động sản xuất và thúc đẩy sự phối hợp về quy trình và hoạt động của các bộ phận marketing, kinh doanh, thiết kế sản phẩm, tài chính, công nghệ thông tin.
Nếu như logistics chủ yếu là quản lý sự vận động của các nguồn nguyên vật liệu, thì chuỗi cung ứng nó lại thiên về việc quản trị tất cả các hoạt động, từ các nguồn hàng trực tiếp cho đến việc thu mua, quản lý các kênh phân phối. Kênh phân phối là những công ty mà giúp bạn sản xuất sản phẩm, phân phối sản phẩm và bán sản một đến một số lượng khách hàng nhất định. Cụ thể:
Về tầm ảnh hưởng: LM có tầm ảnh hưởng ngắn hạn hoặc trung hạn, còn SCM có tầm ảnh hưởng dài hạn.
Về mục tiêu: LM mong muốn đạt đến giảm chi phí logistics nhưng tăng được chất lượng dịch vụ còn SCM lại đặt mục tiêu ở giảm được chi phí toàn thể dựa trên tăng cường khả năng cộng tác và phối hợp, do đó tăng hiệu quả trên toàn bộ hoạt động LM.
Về công việc: LM quản trị các hoạt động bao gồm vận tải, kho bãi, dự báo, đơn hàng, giao nhận, dịch vụ khách hàng… Còn SCM bao gồm tất cả các hoạt động LM và quản trị nguồn cung cấp, sản xuất, hợp tác và phối hợp các đối tác, khách hàng…
Về phạm vi hoạt động: LM chủ yếu quản trị bên trong doanh nghiệp còn SCM quản trị cả bên trong lẫn bên ngoài.
Logistics và chuỗi cung ứng đều là những khái niệm vô cùng rộng lớn xoay quanh việc quản lý ba dòng chảy: thông tin, sản phẩm và tài chính. Quản trị logistics hay quản trị chuỗi cung ứng đều là những sân chơi rộng lớn và không có hồi kết mà trong đó bạn cần làm chủ cuộc chơi của mình. Nếu có thể gói gọn sự khác nhau giữa Logistics và chuỗi cung ứng chỉ bằng một câu nói thì đó chính là: “Logistics là tập con của chuỗi cung ứng”.
Như vậy, logistics bao gồm rất nhiều các hoạt động dịch vụ, với nội dung rất đa dạng giữ vai trò là trung gian trong quá trình lưu thông hàng hóa. Khách hàng của logistics có thể là thương nhân hoặc cũng có thể không phải là thương nhân. Mục đích hoạt động của logistics là để hường thù lao.
Logistics không bao gồm một hoặc vài ngành dịch vụ mà nó là một chuỗi các dịch vụ có mối quan hệ mật thiết với nhau. Tuy nhiên, logistics lại chỉ là một phần của chuỗi cung ứng. Do vậy, ở đây ta cần phân biệt chuỗi dịch vụ với chuỗi cung ứng hay cách khác là phân biệt logistics với chuỗi cung ứng. Hai khái niệm này không mâu thuẫn nhau mà chúng còn hỗ trợ lẫn nhau để mang hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng.
Ra đời từ lĩnh vực quân sự, logistics đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong hoạt động thương mại ngày nay. Bởi nó đã và đang tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho các hoạt động sản xuất, kích thích sự phát triển của ngành sản xuất. Với vai trò to lớn như vậy, logistics rất cần sự quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa.
Trên đây là toàn bộ thông tin mà chúng tôi cung cấp đến bạn về vấn đề: Bình luận ý kiến về dịch vụ logistics bao gồm chuỗi các dịch vụ. Để được tư vấn cụ thể hơn bạn vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn luật trực tuyến qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy.
Trân trọng./.