Trọng tài Thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp rất phổ biến trên thế giới, đặc biệt là tại những nước có nền kinh tế phát triển. Ở Việt Nam, cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại thông qua trọng tài được xác lập từ lâu, dù theo quy định của pháp luật mỗi thời kỳ, cách thức tổ chức và hoạt động của tổ chức trọng tài là khác nhau. Qua bài phân tích sau đây tổng đài tư vấn Luật Quang Huy chúng tôi xin giải quyết về vấn đề: “Bình luận quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thỏa thuận trọng tài thương mại.”
Danh mục tài liệu tham khảo
- Luật trọng tài thương mại năm 2010
- Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003
- Trường đại học Luật Hà Nội, giáo trình Luật thương mại 2, NXB.CAND, Hà Nội, 2006
- Trần Thị Kim Liên, Những vấn đề pháp lí về thỏa thuận trọng tài và thực tiễn áp dụng ở Việt Nam,Luận văn thạc sĩ Luật học 2006
Nội dung
Khái quát về thỏa thuận trọng tài thương mại
Khái niệm của thỏa thuận trọng tài
a, Khái niệm
Theo khoản 2 Điều 3 Luật trọng tài thương mại 2010 thì: “Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh”. Như vậy có thể hiểu khái quát thỏa thuận trọng tài là một thỏa thuận bằng văn bản theo đó các bên ký kết nhất trí đưa tất cả hoặc một số tranh chấp đã hoặc có thể phát sinh từ giao dịch thương mại có khả năng được áp dụng trọng tài ra giải quyết bằng con đường trọng tài.
Trong phương thức trọng tài thì thỏa thuận trọng tài là yếu tố quan trọng nhất. Thỏa thuận trọng tài là yếu tố tiên quyết để hình thành việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Bản chất của thỏa thuận ở đây thể hiện sự thống nhất ý chí, sự tự nguyện và đồng thuận của các bên tham gia tranh chấp. Điều cơ bản làm nên một thỏa thuận trọng tài là sự thống nhất ý chí của các bên khi cùng nhau đưa tranh chấp ra giải quyết tại một tổ chức trọng tài nhất định. Thỏa thuận trọng tài sẽ không có giá trị pháp lý nếu chỉ là ý chí chủ quan của một bên hay là sự áp đặt của bất kỳ cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào.
b, Đặc điểm
Thứ nhất, thỏa thuận trọng tài là sự thể hiện ý chí của các bên có liên quan trong việc giải quyết tranh chấp. Theo đó các bên cam kết và đồng thuận với nhau về việc sử dụng phương thức trọng tài để giải quyết khi có tranh chấp xảy ra, đồng thời thỏa thuận cụ thể về cách thức, trình tự giải quyết và các vấn đề khác có liên quan
Thứ hai, thỏa thuận trọng tài được xác lập dưới hình thức văn bản. Trong các trường hợp, thỏa thuận trọng tài phải được thể hiện dưới hình thức văn bản. Điều này đảm bảo cho thỏa thuận trọng tài có giá trị như một chứng cứ xác định ý chí của các bên muốn giải quyết tranh chấp trọng tài.
Thứ ba, thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập trước hoặc sau khi tranh chấp xảy ra
Thứ tư, nội dung của thỏa thuận trọng tài. Nội dung của thỏa thuận trọng tài chính là việc xác định cách thức, trình tự, thủ tục, thẩm quyền và trách nhiệm của các bên liên quan khi cần giải quyết những tranh chấp, bât đồng phát sinh hay liên quan đến hợp đồng chính. Một thỏa thuận trọng tài chỉ có giá trị pháp lý khi đáp ứng được những yêu cầu của pháp luật về mặt nội dung. Hầu hết các pháp luật của các quốc gia trên thế giới đều yêu cầu nội dung của thỏa thuận trọng tài phải rõ ràng, chính xác, có thể dễ dàng xác định thẩm quyền của hội đồng trọng tài và quy tắc tố tụng nhất định.
Thứ năm, thỏa thuận trọng tài có hiệu lực độc lập với hợp đồng trong cả trường hợp thỏa thuận trọng tài là một điều khoản của hợp đồng.

Ý nghĩa của thỏa thuận trọng tài trong giải quyết tranh chấp thương mại
Thỏa thuận trọng tài là yếu tố không thể thiếu trong việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, bởi lẽ không có thỏa thuận trọng tài thì không thể có việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Theo đó, ý nghĩa của thỏa thuận trọng tài được thể hiện ở những phương diện sau:
Thứ nhất, thỏa thuận trọng tài có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định thẩm quyền của hội đồng trọng tài. Khi có tranh chấp rảy ra thì vấn đề đầu tiên cần xác định là phương thức giải quyết tranh chấp nào sẽ được áp dụng và việc áp dụng giải quyết bằng phương thức nào do các bên thỏa thuận.
Thứ hai, thỏa thuận trọng tài ràng buộc trách nhiệm của các bên. Qua đó giúp các bên nâng cao ý thức trong việc thực hiện những nghĩa vụ đã cam kết, là một biện pháp tích cực để phòng ngừa các tranh chấp.
Thứ ba, thỏa thuận trọng tài là cơ sở pháp lý để thực hiện phán quyết của trọng tài, phán quyết của trọng tài là kết luận cuối cùng của hội đồng trọng tài về giải quyết tranh chấp. Việc xác định thẩm quyền, phạm vi thẩm quyền của hội đồng trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp phụ thuộc vào các giới hạn đặt ra trong thỏa thuận trọng tài. Đặc biệt với những tranh chấp có yếu tố nước ngoài thỏa thuận trọng tài còn cho phép lựa chọn nơi tiến hành tố tụng trọng tài, luật áp dụng và ngôn ngữ trọng tài trong điều kiện phù hợp nhất. Thỏa thuận trọng tài với nội dung chính là quyền lựa chọn của các bên về các yếu tố của luật tố tụng trọng tài sao cho phù hợp nhất với mình nên sẽ giúp hình thành nhưng điều kiện tốt nhất để tiến hành trọng tài và thi hành quyết định trọng tài.
Thứ tư: Thỏa thuận trọng tài được xem là vấn đề then chốt và có vai trò quyết định đối với việc áp dụng trọng tài như một phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, Có thể nói, không có thỏa thuận trọng tài thì không có việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Các văn bản pháp luật điều chỉnh vấn đề thỏa thuận trọng tài thương mại
Tại Việt Nam, cơ sở pháp lý chủ yếu cho hoạt động của trọng tài thương mại được tạo thành bởi quy định trong các văn bản sau:
Thứ nhất, Công ước Neww York 1958 về công nhận và thi hành các quyết định của trọng tài nước ngoài mà Việt Nam là thành viên, nội dung cơ bản của công ước đã được luật hóa tại bộ luật tố tụng dân sự.
Thứ hai, Luật trọng tài thương mại được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VII kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17/6/2010, có hiệu lực từ 1/1/2011, thay thế cho pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003.
Thứ ba, các văn bản dưới luật hướng dẫn Luật trọng tài thương mại năm 2010 như: nghị định 63/2011/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật trọng tài thương mại . Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP của hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của luật trọng tài thương mại.
Bình luận quy định của pháp luật hiện hành về thỏa thuận trọng tài thương mại
Hình thức của thỏa thuận trọng tài
Luật trọng tài thương mại quy định quy định thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng (Khoản 1 Điều 16 ).
Thứ nhất, các bên dự đoán trước và thỏa thuận ngay từ khi bắt đầu quan hệ thương mại việc sẽ đưa ra trọng tài giải quyết các tranh chấp phát sinh. Sự thỏa thuận này thường được thể hiện thành một điều khoản trọng tài trong hợp đồng. Xác lập quan hệ thương mại giữa các bên điều khoản trọng tài là một điều khoản của hợp đồng quy định về việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoặc có liên quan đến hợp đồng bằng trọng tài. Điều khoản trọng tài chỉ mang tính dự liệu, chưa chắc chắn hoặc không bao giờ xảy ra, được xác lập trước khi tranh chấp xảy ra nên thường ngắn gọn. Nhiều hợp đồng sử dụng luôn là điều khoàn trọng tài mẫu của tổ chức trọng tài được các bên lựa chọn để giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, thỏa thuận trọng tài có thể được các bên thỏa thuận và ghi nhận trong một văn bản riêng biệt. Thỏa thuận này thường dưới hình thức một văn bản thỏa thuận riêng và được coi như gắn liền với hợp đồng chính. Văn bản thỏa thuận trọng tài riêng biệt có thể được các bên xác lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp. Trong trường hợp được xác lập sau khi tranh chấp xảy ra nên có thỏa thuận trọng tài riêng biệt có điều kiện để quy định chi tiết, cụ thể về nhiều nội dung liên quan đến việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, phù hợp với tính chất của tranh chấp và yêu cầu của các bên.Thỏa thuận trọng tài dù là một điều khoản của hợp đồng hay một văn bản riêng biệt đều giống nhau về bản chất và đều có giá trị pháp lý như nhau.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 16 LTTTM 2010 quy định thỏa thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Các thỏa thuận sau đây cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản.
Thoả thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Các hình thức thỏa thuận sau đây cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản:
a) Thoả thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex, thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật;
b) Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên;
c) Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên;
d) Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác;
đ) Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thoả thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận. LTTTM 2010 đã khắc phục được sự không rõ ràng về các dạng tồn tại của thoản thuận trọng tài được quy định trong Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003. Khoản 1 Điều 9 pháp lệnh trọng tài quy định:
“ 1.Thoả thuận trọng tài phải được lập bằng văn bản. Thoả thuận trọng tài thông qua thư, điện báo, telex, fax, thư điện tử hoặc hình thức văn bản khác thể hiện rõ ý chí của các bên giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài được coi là thoả thuận trọng tài bằng văn bản.” . Đây được coi là một hạn chế của PLTTTM khi không có hướng dẫn cụ thể “ hình thức văn bản khác ” là gì. Điều này gây nên khó khăn đối với trọng tài viên và các bên khi xác định hình thức nào là văn bản, hình thức nào không được coi là văn bản.
Điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài
Điều kiện về thẩm quyền của trọng tài: Khoản 2 Điều 3 LTTTM 2010: “Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh”, việc quy định như vậy là phù hợp với luật mẫu và luật trọng tài quốc tế. Quan trọng là nó đề cao thỏa thuận của các bên. LTTTM 2010 còn để mở khả năng trọng tài có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp không phát sinh từ hoạt động thương mại nhưng được pháp luật có liên quan quy định sẽ được giải quyết bằng trọng tài. Tuy vậy không phải mọi tranh chấp đều có thể giải quyết được bằng trọng tài, ngay cả khi giữa các bên tranh chấp thỏa mãn điều kiện về sự thỏa thuận, đó là khi pháp luật nơi diễn ra trọng tài không cho phép giải quyết tranh chấp đó thông qua hình thức trọng tài.
Điều kiện về hình thức: Theo khoản 2 Điều 16 LTTTM năm 2010 thì hình thức của thỏa thuận thương mại được thể hiện dưới hình thức văn bản. Ngoài ra còn có một số thòa thuận khác cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản (thỏa thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng fax, telex…). Cũng theo quy định tại điều luật này thì thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng có thể là hình thức thỏa thuận riêng theo khoản 1 điều này
Cũng như các yêu cầu về hình thức văn bản trong trường hợp khác, yêu cầu hình thức văn bản đối với thỏa thuận trọng tài là nhằm đảm bảo khả năng chứng minh một cách dễ dàng hơn về sự tồn tại của một thỏa thuận trọng tài cũng như các nội dung chứa đựng trong đó. Quy định của Luật trọng tài thương mại 2010 về hình thức của thỏa thuận trọng tài về cơ bản là tương ứng với phương án I (Option I) của Điều 7 Luật mẫu của UNCITRAL về trọng tài thương mại quốc tế.

Theo quy định tại Khoản 4 Điều 18 Luật trọng tài thương mại 2010, thỏa thuận trọng tài không thõa mãn điều kiện nêu trên về hình thức thì sẽ xem là vô hiệu. Như vậy thỏa thuận trọng tài bằng lời nói hay bằng hành vi cụ thể là không có giá trị pháp luật.
Điều kiện về chủ thể: Khoản 2 và Khoản 3 Điều 18 Luật trọng tài thương mại 2010 quy định:
“ 2. Người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự.”
Theo quy định trên, trường hợp bên tranh chấp là doanh nghiệp tư nhân thì người có thẩm quyền xác lập thỏa thuận trọng tài cho doanh nghiệp tư nhân đó là chủ doanh nghiệp tư nhân với tư cách là người đại diện theo pháp luật hoặc người khác do chủ doanh nghiệp ủy quyền. Đối với bên tranh chấp là công ty các loại thì người có thẩm quyền xác lập thỏa thuận trọng tài cho công ty đó là người đại diện theo páp luật cho công ty hoặc người đại diện theo pháp luật ủy quyền. Đối với công ty hợp doanh thì người đại diện là bất kỳ thành viên hợp danh nào.
Các bên của thỏa thuận trọng tài (không đồng nghĩa với xác lập thỏa thuận trọng tài) phải được tự do ý chí trong quá trình xác lập thỏa thuận trọng tài, nghĩa là không được bị lữa dối, bị đe dọa hay bị cưỡng ép. Sự lừa dối, đe dọa hay cưỡng ép không nhất thiết phải do bên kia mà có thể do bất kỳ bên thứ ba nào thực hiện. Tuy nhiên, trong trường hợp một bên của thỏa thuận trọng tài bị lừa dối, đe dọa hay cưỡng ép, thì thỏa thuận trọng tài chi bị tuyên bố vô hiệu khi có yêu cầu của bên đó.
Điều kiện về nội dung: Về mặt nội dung theo quy định tại Khoản 1 Điều 18 Luật trọng tài thương mại 2010, tranh chấp được thỏa thuận giải quyết bằng trọng tài phải thuộc thẩm quyền của trọng tài. Thỏa thuận đưa tranh chấp không thuộc thẩm quyền chung của trọng tài (quy định tại Điều 2 Luật trọng tài thương mại 2010 ) ra trọng tài giải quyết thì thỏa thuận đó vô hiệu.
Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật cũng vô hiệu. Mặc dù, Luật trọng tài thương mại 2010 không đưa thỏa thuận trọng tài vi phạm đạo đức xã hội vào diện thỏa thuận trọng tài vô hiệu, nhưng thỏa thuận như vậy cũng sẽ vô hiệu theo quy định của Bộ luật Dân sự
Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài
Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài độc lập với hiệu lực của hợp đồng chính
Theo Điều 19 LTTTM 2010 quy định thỏa thuận trọng tài độc lập với hợp đồng chính: “Thoả thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm mất hiệu lực của thoả thuận trọng tài”, có thể nói đây là một nguyên tắc rất quan trọng, đảm bảo mọi tranh chấp phát sinh đều được giải quyết kể cả khi hợp đồng vô hiệu.
Trên thực tế thỏa thuận về trọng tài thông thường được thể hiện đơn giản dưới hình thức một điều khoản trọng tài và đưa vào hợp đồng thương mại. Thực tế điều khoản trọng tài có một mức độ độc lập nhất định đối với hợp đồng chính. Nói cách khác, việc vô hiệu của hợp đồng chính không thể ảnh hưởng đến tiến trình tố tụng bằng trọng tài.
Dưới đây là khái quát các trường hợp mà trong đó hợp đồng chính vô hiệu hoặc hết hiệu lực nhưng thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực:
Trong trường hợp bất khả kháng kéo dài khiến hợp đồng không thể thực hiện được, các bên phải chấm dứt hợp đồng nhưng điều khoản trọng tài vẫn phát huy hiệu lực để giải quyết vấn đề chấm dứt hợp đồng;
Trong trường hợp hợp đồng đã được các bên thực hiện xong nhưng điều khoản trọng tài vẫn còn hiệu lực để có thể thành lập tổ chức trọng tài xem xét hậu quả pháp lý và nghĩa vụ của các bên;
Trường hợp hợp đồng bị vô hiệu vì đối tượng của hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật nhưng điều khoản trọng tài thì vẫn có hiệu lực bởi đối tượng của thỏa thuận trọng tài là hoàn toàn hợp pháp;
Trường hợp hợp đồng bị vô hiệu từng phần nhưng phần hợp đồng bị vô hiệu không tự động kéo theo sự vô hiệu của điều khoản trọng tài.
Tuy nhiên trong một số trường hợp, sự vô hiệu của hợp đồng chính sẽ làm cho điều khoản trọng tài cũng trở nên vô hiệu, nhất là trong trường hợp nguyên nhân làm cho hợp đồng chính vô hiệu trùng với nguyên nhân làm cho điều khoản trọng tài vô hiệu như trường hợp thỏa thuận trọng tài nằm trong một hoạt động được ký kết bởi một trong các chủ thể không có thẩm quyền và năng lực ký kết hợp đồng hoặc vi phạm nguyên tắc tự nguyện ký kết hợp đồng.
Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài đối với các chủ thể có liên quan
Thứ nhất, đối với cơ quan trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp
Thông qua việc chỉ định các trọng tài viên, các bên trao cho hội đồng trọng tài quyền hạn để giải quyết tranh chấp. Thỏa thuận trọng tài trao quyền cho hội đồng trọng tài quyết định giải quyết một tranh chấp mà các bên có nghĩa vụ đệ trình lên trọng tài. Quyết định này sẽ ràng buộc các bên và nó có thể được cưỡng chết thi hành bởi tòa án.
Thứ hai, hiệu lực của thỏa thuận trọng tài đối với tòa án quốc gia. Điều 6 LTTTM năm 2010 đã quy định về việc tòa án từ chối thụ lý trong trường hợp có thỏa thuận trọng tài: “Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được”.Quy định này ddax thể hiện rõ ràng thái độ của nhà nước đối với thỏa thuận trọng tài và nó như là sự đảm bảo mạnh mẽ từ phía nhà nước để thỏa thuận trọng tài được các bên tôn trọng. Luật quy định tòa án không được thụ lý vụ kiện tranh chấp khi các bên đã có thỏa thuận trọng tài là để khẳng định thẩm quyền của trọng tài, ngoại lệ được quy định là trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc không thể thực hiện được. Đồng thời quy định này cũng thể hiện sự tiến bộ so với pháp lệnh trọng tài thương mại khi pháp lệnh chỉ quy định một ngoại lệ duy nhất là “ thỏa thuận trọng tài vô hiệu ” , điều này đã gây ra nhiều khó khăn trong thực tiễn hoạt động tư pháp của Việt Nam
Thứ ba, hiệu lực của thỏa thuận trọng tài đối với các bên tham gia thỏa thuận trọng tài. Khi ta đã thỏa thuận, các bên phải thực hiện các nghĩa vụ phát sinh từ thỏa thuận này và không bên nào được đơn phương thay đổi hoặc vi phạm nghĩa vụ trọng tài
Thứ tư, Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài khi có sự thay đổi của một bên
Sau khi thỏa thuận trọng tài được xác lập, có thể có những thay đổi lớn liên quan đến một bên. Trong trường hợp này, LTTTM quy định thỏa thuận trọng tài tiếp tục có hiệu lực, cụ thể:
Theo khoản 2, khoản 3 Điều 5 LTTTM quy định:“2. Trường hợp một bên tham gia thoả thuận trọng tài là cá nhân chết hoặc mất năng lực hành vi, thoả thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối với người thừa kế hoặc người đại diện theo pháp luật của người đó, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
. Trường hợp một bên tham gia thỏa thuận trọng tài là tổ chức phải chấm dứt hoạt động, bị phá sản, giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hoặc chuyển đổi hình thức tổ chức, thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối với tổ chức tiếp nhận quyền và nghĩa vụ của tổ chức đó, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.”
Thẩm quyền xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài: Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì thẩm quyền xem xét và quyết định về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài thuộc về hội đồng trọng tài do các bên thành lập, tòa án nhân dân.
Thỏa thuận trọng tài vô hiệu, không thực hiện được
Thỏa thuận trọng tài vô hiệu là trường hợp các bên thực hiện về việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nhưng thỏa thuận đó không được công nhận hiệu lực.Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 đã liệt kê các trường hợp thỏa thuận trọng tài bị coi là vô hiệu, tuy nhiên một số quy định không hợp lý và mâu thuẫn với các quy định khác của pháp lệnh này cũng như thông lệ của pháp luật quốc tế: Thỏa thuận trọng tài không quy định hoặc quy định không rõ đối tượng tranh chấp, tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp mà sau đó các bên có thẩm quyền bổ sung.
LTTTM 2010 đã khắc phục hạn chế trên của pháp lệnh trọng tài thương mại, Điều 18 LTTTM 2010 quy định cụ thể về các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu như sau:
Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực, không thuộc thẩm quyền của trọng tài quy định tại điều 2 của luật này. Theo điều 2 của luật, phạm vi thẩm quyền của trọng tài được mở rộng không chỉ bao gồm tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại hiểu theo nghĩa rộng như quy định của pháp lệnh trọng tài thương mại. Như vậy phạm vi xác định thỏa thuận trọng tài vô hiệu do không thuộc thẩm quyền của trọng tài được thu hẹp.
Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy định của bộ luật dân sự.
Hình thức của thỏa thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại điều 16 của luật này.
Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập thỏa thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài đó là vô hiệu
Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.
Như vậy, Luật trọng tài thương mại Việt Nam năm 2010 cũng đã khắc phục trường hợp được sự không rõ ràng của pháp lệnh trọng năm 2003 về các trường hợp vô hiệu thỏa thuận trọng tài thương mại cụ thể hơn. Bên cạnh đó, luật trọng tài thương mại năm 2010 còn quy định trường hợp thỏa thuận trọng tài không rõ ràng thì bên khởi kiện có quyền được tự do lựa chọn trọng tài thích hợp để khởi kiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Quy định này sẽ hạn chế tình trạng thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc không xác định được cơ quan nào giải quyết tranh chấp.
Luật trọng tài thương mại Việt Nam không quy định rõ trường hợp nào thỏa thuận trọng tài không thực hiện được. Tuy nhiên, chúng ta có thể hiểu rằng thỏa thuận trọng tài không thực hiện được khi một bên tham gia thỏa thuận trọng tài là cá nhân chết hoặc mất năng lực hành vi mà không có người thừa kế hoặc người đại diện theo pháp luật của người đó và các bên không có thỏa thuận khác. Trường hợp một bên tham gia thỏa thuận trọng tài là tổ chức phải chấm dứt hoạt động, bị phá sản, giải thể và không có tổ chức tiếp nhận quyền và nghĩa vụ của tổ chức đó và các bên không có thỏa thuận khác. Như vậy có thể hiểu rằng thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được là thỏa thuận không trái pháp luật nhưng lại không có đủ các điều kiện để thực hiện không khả thi hoặc không tồn tại theo đối tượng yêu cầu.
Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành và các giải pháp nâng cao hiệu quả
Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thỏa thuận trọng tài thương mại
a, Những điêm hạn chế.
Trong giai đoạn LTTTM 2010 ra đời, có hiệu lực thi hành cho đến nay vẫn còn một số điểm bất cập liên quan đến thỏa thuận trọng tài.
Thứ nhất, nếu thỏa thuận trọng tài tạo thành một phần của thỏa thuận khác, không phải là một điều khoản của hợp đồng, liệu thỏa thuận trọng tài có thể được coi như một thỏa thuận độc lập và có thể tồn tại hay không, nếu thỏa thuận chính vô hiệu.
Thứ hai, Điều 6 LTTTM chỉ nêu thuật ngữ: “thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được ” mà không làm rõ khái niệm trên, sự thiếu sót này đã gây cản trở các bên trong việc áp dụng pháp luật để xác định trường hợp nào là thỏa thuận trọng tài không thực hiện được để họ cân nhắc trước khi xây dựng thỏa thuận trọng tài. Bên cạnh đó nhiều doanh nghiệp chưa tiếp cận được các điểm mới của LTTTM nói chung cũng như các quy định về thỏa thuận trọng tài nói riêng so với pháp lệnh trước đây.
Thứ ba, về thời điểm xác lập thỏa thuận trọng tài. Nếu điều khoản trọng tài là một bộ phận của hợp đồng thì điều khoản này cũng có hiệu lực pháp luật. Câu hỏi đặt ra là liệu có thể áp dụng những quy định về giao dịch dân sự và hợp đồng dân sự để xác định thời điểm hình thành của thỏa thuận trọng tài hay không hay chỉ cần ghi nhận điều này trong một văn bản pháp luật riêng biệt về trọng tài? Luật trọng tài thương mại cần phải có quy định cụ thể về vấn đề.
Thứ tư, Luật quy định việc thay đổi,gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, sự vô hiệu của hợp đồng không ảnh hưởng đến hiệu lực của điều khoản trọng tài. Vậy nếu hợp đồng không thể thực hiện được, không rơi vào những trường hợp trên, giá trị pháp lý của điều khoản trọng tài như thế nào?
Thứ năm, doanh nghiệp chưa có một thói quen đặt ra câu hỏi là cần lực chọn trọng tài hay tòa án khi ký kết hợp đồng và tại sao lại như vậy. Một số doanh nghiệp Việt Nam, do không chọn trước trọng tài (hay Tòa án) khi có tranh chấp phát sinh trong các vụ kiện có yếu tố nước ngoài, họ không biết quyết định như thế nào
Thứ sáu, nếu có chọn trọng tài thì họ cũng chỉ quy định một cách chung chung, không chính xác. Ví dụ : trong các điều khoản trọng tài, họ vừa chọn trọng tài lại vừa chọn Tòa án; chọn trọng tài A để phúc thẩm trọng tài B; chọn trọng tài A nhưng lại quy định dung quy tắc trọng tài B để áp dụng; ghi tên tổ chức trọng tài hoặc ghi quy tắc tố tụng không chính xác… Những điều khoản trọng tài như vậy rất dễ bị tranh chấp về tính hiệu lực của nó, khả năng vô hiệu của điều khoản trọng tài sẽ rất cao. Một điều khoản trọng tài bị coi là vô hiệu sẽ dẫn đến hệ quả phức tạp, nhất là việc quyết định trọng tài có thể bị hủy, vụ tranh chấp sẽ bị kéo dài không cần thiết.
b)Những điểm đạt được.
Hiện nay, với gần 20 trung tâm trọng tài thương mại được cấp phép hoạt động ở Việt Nam, trong đó, nếu tính riêng VIAC, các vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài chiếm khoảng 30% trong tổng số các vụ tranh chấp được giải quyết. Số vụ giải quyết tranh chấp do VIAC thu lý cũng tăng đều qua các năm, với khoảng 155 vụ được giải quyết trong năm 2016. Từ thực tế trên, có thể thấy rằng thiết chế trọng tài thương mại sẽ phát triển nhanh ở Việt Nam, và sớm là một công cụ hỗ trợ cho hoạt động của doanh nghiệp FDI tại Việt Nam.
Các giải pháp nâng cao hiệu quả về áp dụng pháp luật hiện hành về thỏa thuận trọng tài trong thực tiễn ở Việt Nam
Thứ nhất, Cần hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật về thỏa thuận trọng tài thương mại phù hợp và dự trên các điều khoản trọng tài mẫu
Một điều khoản trọng tài rõ ràng, đầy đủ và chặt chẽ sẽ đảm bảo tranh chấp phát sinh được giải quyết nhanh chóng và hiệu quả. Tuy nhiên, không phải ai cũng có điều kiện để tìm hiểu sâu về nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Để tiết kiệm thời gian, giải pháp tốt nhất là nên sử dụng các điều khoản trọng tài mẫu.
Thứ hai, Lựa chọn hình thức trọng tài phù hợp
Khi soạn thảo điều khoản về trọng tài, các bên cần cân nhắc các điều kiện về tài chính, sự thuận tiện hay bản chất của tranh chấp sễ phát sinh để lựa chọn một hình thức trọng tài phù hợp. Trọng tài quy chế thích hợp với những tranh chấp phức tạp, hợp đồng có giá trị lớn còn trọng tài vụ việc thích hợp vói những tranh chấp đơn giản, cần giải quyết nhanh chóng và tiết kiệm chi phí
Thứ ba, Lựa chọn luật áp dụng cho nội dung vụ tranh chấp
Luật áp dụng hoàn toàn do các bên tự do lựa chọn. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội đồng trọng tài sẽ quyết định luật phù hợp nhất với quan hệ hợp đồng . Để lựa chọn luật phù hợp thì một yêu cầu quan trọng là luật áp dụng phải dễ tiếp cận, phải được sử dụng rộng rãi, phổ biến trong thương mại quốc tế và phù hợp với quan hệ thương mại cụ thể giữa các bên. Do vậy, khi quyết định chọn luật, các bên cần chủ động tìm hiểu để lường trước được các rủi ro và bất lợi có thể xảy ra.
Thứ tư, Thỏa thuận trọng tài đơn giản và chính xác
Để đạt được tính khả thi hiệu quả, một điều khoản thỏa thuận trọng tài không nhất thiết phải dài và chi tiết. Hai nguyên tắc cơ bản mà bất kì người soạn thảo điều khoản trọng tài cũng nên biết là tính đơn giản và tính chính xác, cụ thể là đơn giản trong soạn thảo và chính xác khi tập hợp các nội dung để đưa vào điều khoản.
Theo đó, điều khoản trọng tài nên quy định một cách khái quát tối đa các tranh chấp không chỉ liên quan đến việc thực hiện hợp đồng, mà còn cả những vấn đề về sự tồn tại ,hiệu lực của hợp đồng, vi phạm và chấm dứt hợp đồng và các hệ quả tài chính của hợp đồng.
Thứ năm, tăng cường ý thức pháp luật cho các doanh nghiệp
Doanh nghiệp nên tìm hiểu kỹ hơn về các phương thức giải quyết tranh chấp như thương lượng,trung gian, hòa giải cũng như các phương thức tài phán như trọng tài, tòa án.
Mở các lớp huấn luyện do các chuyên gia đầu ngành về trọng tài chủ trì để các doanh nghiệp có điều kiện giao lưu trao đổi, học hỏi kinh nghiệm về nghệ thuật đàm phán và xác lập thỏa thuận trọng tài.
Qua việc nghiên cứu về thỏa thuận trọng tài thương mại, chúng ta có thể khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của thỏa thuận trọng tài đối với phương thức trọng tài thương mại. Bài làm trên em đã bình luận ra một số vấn đề về trọng tài thương mại mong thấy cô bổ sung để hoàn thiện hơn.
Trên đây là phần giải đáp thắc mắc của chúng tôi về vấn đề:Quy định của pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài thương mại. Nếu trong quá trình giải quyết còn gì thắc mắc bạn có thể liên hệ chúng tôi qua tổng đài tư vấn pháp luật qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy để được giải đáp.
Trân trọng./.