Trong quá trình đàm phán, kí kết các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, đặc biệt là các hợp đồng dài hạn thì việc xảy ra rủi ro (rủi ro từ thiên nhiên, con người, xã hội …) dẫn đến tranh chấp phát sinh là điều không thể tránh khỏi. Việc áp dụng các quy định của pháp luật về các điều khoản “Bất khả kháng” vào hợp đồng lúc này là điều rất cần thiết.
Hơn nữa, điều khoản này cũng rất phổ biến và được quan tâm trong thực tiễn thương mại quốc tế, cho nên, các doanh nghiệp Việt Nam không thể là “người ngoài cuộc” bỏ qua nó được mà cần phải tận dụng để bảo vệ quyền lợi của mình. Công ước Liên Hiệp Quốc về Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế năm 1980 (United Nations Convention on Contracts for the International Sales of goods, sau đây gọi tắt là CISG) được đánh giá là một trong những điều ước quốc tế về thương mại thành công nhất từ trước đến nay.
Để làm rõ vấn đề trên, trong phần bài làm của mình, em xin lựa chọn đề bài: “Phân tích vấn đề bất khả kháng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo quy định của CISG và những vấn đề cần lưu ý đối với các doanh nghiệp Việt Nam”.
Danh mục tài liệu tham khảo:
- Công ước Liên Hiệp Quốc về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
- Giáo trình luật thương mại quốc tế – Nxb Công an nhân dân
Nội dung
Giới thiệu về CISG
CISG có lẽ là nỗ lực hài hòa pháp luật trong lĩnh vực thương mại hàng hóa thành công nhất trong trong lịch sử. Theo một thống kê, có ít nhất 3000 vụ tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trong đó tòa án và trọng tài áp dụng CISG để giải quyết.
CISG là một công ước do Ủy ban Liên Hợp Quốc về Luật Thương mại quốc tế (UNCITRAL) soạn thảo và thông qua tại Viên năm 1980, CISG là công ước thành công nhất trong lĩnh vực này, chấm dứt vai trò (không hiệu quả) của hai công ước LaHay năm 1964 về mua bán quốc tế động sản hữu hình. Sự thành công của CISG thể hiện rõ nhất ở số thành viên 88 hiện tại của nó, bao gồm hầu hết các nền kinh tế lớn trên thế giới như Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Đức, Pháp.
Việt Nam đã là thành viên của công ước này và công ước đã có hiệu lực ở Việt Nam từ ngày 01.01.2017. Từ thời điểm này hầu hết các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được giao kết giữa thương nhân Việt Nam và các nước thành viên công ước sẽ được điều chỉnh bởi công ước.
Mục tiêu của CISG được nêu trong lời nói đầu của công ước, rằng: “thống nhất luật áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế; Giảm xung đột pháp luật, hạn chế tranh chấp phát sinh; Tạo điều kiện thúc đẩy thương mại hàng hóa giữa các quốc gia”.

Quy định của CISG điều chỉnh trường hợp bất khả kháng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
CISG quy định về bất khả kháng tại Điều 79 dưới tiêu đề Exemption (Miễn trách) theo đó “một bên không chịu trách nhiệm về việc không thực hiện bất kì một nghĩa vụ nào đó của họ nếu chứng minh được rằng việc không thực hiện đó là do một trở ngại nằm ngoài sự kiểm soát của họ và người ta không thể chờ đợi một cách hợp lí rằng họ phải tính tới trở ngại đó vào lúc kí kết hợp đồng hoặc là tránh được hay khắc phục được hậu quả của nó”.
Chỉ những trở ngại nào thực sự đến mức khiến cho việc thực hiện các nghĩa vụ là không thể (impossibile) mới được xem xét, còn những trường hợp tuy có gây hoặc đe doạ gây khó khăn trở ngại đến việc thực hiện nghĩa vụ hoặc chỉ dừng ở mức không khả thi (impracticable) thường có thể sẽ không được xem xét.
Ví dụ, công ty Tsakiroglou và Noblee Thorl GMbH đã thỏa thuận mua bán đậu phộng Sudan giá CIF, tuy nhiên, kênh đào Suez bất ngờ đóng cửa làm cho lộtrình của tàu phải vòng qua Mũi Hảo Vọng. Như vậy, với một lộ trình mới này, Người mua phải chịu thêm một khoản phí lớn nữa so với dự tính ban đầu, tuy nhiên đây không phải là trường hợp bất khả kháng vì trở ngại này không làm cho việc thực hiện của người mua là không thể thực hiện được.
Và quan trọng là một bên không được viện dẫn việc không thực hiện nghĩa vụ của bên kia trong chừng mực mà việc không thực hiện nghĩa vụ đó là do những hành vi hay sơ suất của chính họ (Điều 80). CISG quy định miễn trách cho cả người bán và người mua, đề cập đến tất cả các trường hợp bất khả kháng có thể xảy ra trong việc thực hiện bất cứ nghĩa vụ được quy định trong hợp đồng.
Về hậu quả pháp lí, theo CISG bên vi phạm chỉ được miễn trách nhiệm phải thực hiện các biện pháp đền bù thiệt hại gây ra bởi sự kiện bất khả kháng, bên bị vi phạm có quyền tiến hành tất cả các biện pháp bảo hộ pháp lí hay chế tài còn lại theo quy định của Công ước bao gồm quyền được yêu cầu giảm giá hàng hoá (Điều 50), buộc thực hiện hợp đồng (Điều 46, Điều 62), tuyên bố huỷ hợp đồng (Điều 49, Điều 64), và thanh toán tiền lãi trên các khoản thanh toán chậm (Điều 78).
Về thời hạn, CISG quy định sự miễn trách chỉ có hiệu lực trong thời kì tồn tại sự kiện khó khăn, trở ngại (Điều 79.3). Về nghĩa vụ thông báo, theo CISG bên nào không thực hiện nghĩa vụ của mình thì phải thông báo cho bên kia biết về trở ngại và ảnh hưởng của nó đối với khả năng thực hiện nghĩa vụ. Nếu thông báo không tới tay bên kia trong một thời hạn hợp lý từ khi bên không thực hiện nghĩa vụ đã biết hay đáng lẽ phải biết về trở ngại đó thì họ sẽ phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại do việc bên kia không nhận được thông báo.
Khi nhận dạng tranh chấp về trường hợp bất khả kháng theo CISG, tranh luận của các bên thường xoay quanh các tiêu chí để công nhận một trường hợp là bất khả kháng. Đơn cử như sự kiện trở ngại có phải là nguyên nhân dẫn đến việc không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng; thế nào là “nằm ngoài sự kiểm soát” của một bên; thế nào là “khắc phục được” hay “tránh được” sự kiện trở ngại; hay sự “không tiên liệu trước” về những sự kiện như vậy phải được hiểu như thế nào.
Do đặc điểm phức tạp của hoạt động thương mại quốc tế như sự mở rộng về không gian, sự kéo dài về thời gian, sự khác nhau về địa lí, tập quán, quy định của mỗi quốc gia mà khả năng xảy ra những trường hợp bất khả kháng là rất lớn.
Bên cạnh đó, do hậu quả pháp lí là được miễn trách và trong nhiều trường hợp có thể thay đổi hoàn toàn vị thế của các bên nên không tránh được khả năng các bên tìm cách lợi dụng trường hợp bất khả kháng để cố gắng giải thoát trách nhiệm khi có những hoàn cảnh bất lợi xảy đến hoặc để trục lợi khi giá cả thị trường thay đổi theo hướng có lợi cho bên mình.
Một số hợp đồng được soạn thảo với điều khoản bất khả kháng rất cụ thể chi tiết có thể hạn chế được tranh chấp xảy ra nhưng có rất nhiều hợp đồng thiếu vắng điều khoản quan trọng này.
- Phân tích vấn đề bất khả kháng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo quy định của CISG và những vấn đề cần lưu ý đối với các doanh nghiệp Việt Nam
Lợi ích khi áp dụng điều khoản “bất khả kháng”
- Lợi ích 1: được miễn trách nhiệm do sự kiện bất khả kháng gây ra
Để được coi là một căn cứ miễn trách nhiệm, thì sự kiện bất khả kháng phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra hành vi vi phạm hợp đồng. Do vậy, việc chứng minh của bên gặp bất khả kháng sẽ gồm 2 điểm: một là, sự tồn tại của trường hợp bất khả kháng và hai là, quan hệ nhân quả giữa nó và hành vi vi phạm hợp đồng.
Do hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được tiến hành ký kết và thực hiện giữa các thương nhân ở các nước khác nhau, thậm chí ở rất xa nhau. Cho nên, để tránh việc một bên đưa ra các sự kiện minh chứng giả tạo, người ta đòi họ phải đưa ra được các bằng chứng xác thực.
Công ước Viên năm 1980 không quy định các biện pháp, cách thức chứng minh cho trường hợp gặp bất khả kháng. Còn trong thực tiễn thì các bên thường quy định trong hợp đồng về việc chứng minh bất khả kháng là một giấy chứng nhận của Phòng thương mại tại quốc gia nơi xảy ra sự kiện hoặc là xác nhận của một cơ quan nào đó có thẩm quyền của Nhà nước.
- Lợi ích thứ 2: kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng tương ứng với thời gian tổn tại bất khả kháng. Điều này có thể được lý giải như sau:
Khi một nhà kinh doanh ký kết HĐTMQT thì họ đã có những kế hoạch riêng của mình và chờ đợi thu được lợi nhuận thông qua việc thực hiện hợp đồng. Nếu hợp đồng không thực hiện được, mục đích thương mại không đạt, các chi phí đã bỏ ra không thu hồi được sẽ gây ra những tổn thất lớn không những về kinh tế mà còn về mối quan hệ làm ăn lâu năm giữa các bên.
Như vậy, việc không thực hiện nghĩa vụ, dù không do lỗi của bên nào đi nữa cũng có thể mang lại thiệt hại lớn cho các bên. Cho nên, trong thực tiễn thương mại quốc tế người ta đã rút ra kết luận là: thà được thực hiện chậm còn hơn là không có. Tuy nhiên, việc đó còn phụ thuộc vào thời gian tồn tại của bất khả kháng.
- Lợi ích thứ ba: chấm dứt các quan hệ hợp đồng giữa hai bên
Đây là trường hợp bất khả kháng xảy ra và tổn tại trong một thời gian khá dài làm cho việc thực hiện hợp đồng không còn ý nghĩa đối với một hoặc cả hai bên hoặc hậu quả của bất khả kháng là rất nghiêm trọng mà bên vi phạm hợp đồng dù đã áp dụng biện pháp cần thiết nhưng cũng không thể khắc phục được.
Chẳng hạn, người bán đã bị tổn thất rất nặng nề về toàn bộ lô hàng đang được giao cho đối tác giao (do sự kiện bão lớn làm chìm tàu, hàng hóa không thể cứu vớt), sau đó người bán không còn cách nào để có hàng giao cho người mua nữa. Lúc này, bên vi phạm hợp đồng có thể viện dẫn điều khoản về những trường hợp bất khả để được chấm dứt hợp đồng, miễn trách nhiệm của mình.
Lưu ý khi áp dụng CISG
CISG là một văn bản thống nhất luật được áp dụng rộng rãi trên thế giới và đem lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, để tận dụng được các lợi ích đó, khi áp dụng CISG, doanh nghiệp và các chủ thể áp dụng cần lưu ý một số vấn đề sau:
- Các quy định của CISG không bao trùm mọi vấn đề pháp lý có liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
- CISG chưa có các quy phạm điều chỉnh các vấn đề pháp lý mới phát sinh trong thương mại quốc tế, ví dụ các quy phạm pháp lý liên quan đến thương mại điện tử. Tuy nhiên, trong những trường hợp này vẫn có thể vận dụng các nguyên tắc cơ bản của công ước để giải quyết các tình huống phát sinh đó.
- Dù thành công ở hầu hết các nước thành viên, ở một vài nước khác, CISG không đạt được những thành tựu như mong đợi. Điển hình nhất là tại Hoa Kỳ, CISG đã không gây được tiếng vang và không được sử dụng với tần suất như mong đợi. Các tòa án Hoa Kỳ cũng thường từ chối áp dụng CISG.
- Dù rất nhiều đối tác thương mại lớn trên thế giới đã là thành viên CISG, vẫn còn một số đối tác quan trọng của Việt Nam chưa tham gia Công ước này.
Khi một công ước quan trọng có phạm vi áp dụng gần như cho hầu hết các nền kinh tế lớn trên thế giới có hiệu lực với Việt Nam, biết được khi nào công ước được áp dụng cho một hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thay cho luật quốc gia là vấn đề luôn được đặt ra đầu tiên cho tòa án, trọng tài, luật sư cũng như các thương nhân.
CISG áp dụng không có nghĩa là luật quốc gia không còn vai trò gì nữa. Trật tự công cộng vẫn phải được tuân thủ và luật quốc gia vẫn điều chỉnh những vấn đề mà CISG không chạm tới. Luật quốc gia vẫn kết hợp điều chỉnh hợp đồng với CISG, cũng như Incoterms và PICC.
Trên đây là phần giải đáp thắc mắc của chúng tôi về vấn đề: Phân tích vấn đề bất khả kháng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo quy định của CISG và những vấn đề cần lưu ý đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Nếu trong quá trình giải quyết còn gì thắc mắc bạn có thể liên hệ tới Tổng đài tư vấn luật trực tuyến qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy để được giải đáp.
Trân trọng./.