Ý kiến cá nhân khi đánh giá quy định pháp luật về công khai ngân sách

Ở nước ta, trước đây việc công khai tài chính được quy định ở một số văn bản pháp luật như Luật ngân sách nhà nước, Luật phòng, chống tham nhũng… Tuy nhiên, do chưa được hướng dẫn cụ thể, rõ ràng nên việc công khai ngân sách chưa được thực hiện nghiêm túc, thậm chí đối phó, hình thức. Hầu hết các cơ quan chỉ thực hiện việc công khai các khoản chi tiêu theo dự toán kinh phí không kèm theo bất cứ lời giải thích, chi tiết về các khoản chi tiêu như chi cho ai, làm việc gì, thời gian nào…

Vì vậy, có thể nói với quy định tại Luật Ngân sách Nhà nước 2015 này, việc công khai ngân sách đã có bước tiến khá dài hướng đến nền hành chính công khai, minh bạch, vì dân một cách toàn diện. Tuy nhiên, dù vậy vẫn không tránh khỏi những bất cập gây khó khăn trong quá trình thực hiện quy định pháp luật, do đó em xin phân tích đề tài: “Bằng cách phân tích các quy định và liên hệ thực tiễn, chứng minh Luật Ngân sách nhà nước 2015 đã thể hiện nguyên tắc công khai trong hoạt động ngân sách nhà nước. Ý kiến cá nhân khi đánh giá quy định pháp luật về công khai ngân sách”.


Danh mục tài liệu viết tắt:

NSNN Ngân sách nhà nước
HĐND Hội đồng nhân dân

Danh mục tài liệu tham khảo:

  • Luật ngân sách nhà nước năm 2015;
  • Luật ngân sách nhà nước năm 2002;
  • Luật phòng chống tham nhũng sửa đổi bổ sung năm 2012;

Nội dung

Những quy định của pháp luật về nguyên tắc công khai trong hoạt động Ngân sách Nhà nước

Các điều khoản dưới đây sử dụng Luật Ngân sách Nhà nước 2015, từ đây sẽ không nêu nguồn.

Sự tất yếu và ý nghĩa của việc thực hiện nguyên tắc công khai Ngân sách nhà nước

Đối với những việc chung, những việc có liên quan tới lợi ích của nhiều người, ai cũng muốn mọi thứ đều được công khai, minh bạch. Thế nhưng, một số người có ý đồ muốn mình được lợi ích nhiều hơn đã phải tìm mọi cách để không công khai, hoặc thiếu công khai, hoặc có công khai, song thiếu minh bạch, hoặc không minh bạch. Vì thế, công khai thiếu minh bạch thường được thể hiện dưới dạng: công khai ở chỗ tối; công khai, nhưng thiếu những dữ liệu cơ bản; công khai dưới dạng chung chung… Các dạng công khai, nhưng thiếu minh bạch như vậy người ta vẫn gọi là vui là “tranh tối – tranh sáng” hay “chạng vạng”. Ngữ cảnh này đã được nhiều tiểu thuyết gia lựa chọn làm bối cảnh cho những câu chuyện ly kỳ của mình.

Thực tiễn thế giới cho thấy, trong sự phát triển của một đất nước, công khai và minh bạch Ngân sách nhà nước (NSNN) là yếu tố cơ bản để đẫn đường cho phát triển, là điều kiện cần để thoát bẫy “thu nhập trung bình”, vươn lên hàng các nước công nghiệp có thu nhập cao. Bởi, công khai và minh bạch là yếu tố cần thiết để tạo đồng thuận xã hội, đồng thuận giữa nhân dân và nhà nước, tạo lòng tin của dân vào Nhà nước, mà còn giám sát hoạt động của Nhà nước – người đại diện cho quyền lực của Nhân dân. Người dân có thông tin không chỉ để tham gia vào việc chung của Nhà nước. Đây cũng là yếu tố cơ bản để phát huy động lực tăng trưởng bằng nguồn nhân lực, làm cho nguồn lực con người được giải phóng nhằm tạo ra động lực. Bên cạnh đó, công khai và minh bạch là giải pháp cốt lõi để tạo năng lượng từ thông tin trong quá trình phát triển kinh tế tri thức. Thông tin sẽ tạo nên những giá trị gia tăng rất lớn cho phát triển. Hơn nữa, công khai và minh bạch là giải pháp quan trọng nhất để phòng, chống tham nhũng, hướng tới một xã hội thực sự dân chủ, công bằng, văn minh.

Ý nghĩa của nguyên tắc công khai Ngân sách nhà nước

Nguyên tắc công khai minh bạch chính là một trong những nguyên tắc quan trọng của hoạt động ngân sách. Nguyên tắc này nhằm phát huy quyền làm chủ của cán bộ, công chức Nhà nước, tập thể người lao động và nhân dân trong việc thực hiện kiểm tra kiểm sát quá trình quản lí và sử dụng vốn, tài sản Nhà nước, huy động, quản lí và sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân theo quy định của pháp luật; phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật; bảo đảm sử dụng có hiệu quả ngân sách nhà nước, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.

Việc thực hiện Luật NSNN đã tạo khuôn khổ pháp lí về quản lí NSNN thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Chính sách thu ngân sách, định mức phân bổ chi NSNN, các chính sách chế độ, tiêu chuẩn về chi NSNN do Trung ương thống nhất ban hành, áp dụng trong phạm vi cả nước, thu ngân sách được tập trung vào Kho bạc Nhà nước và thực hiện phân cấp nguồn thu giữa các cấp ngân sách theo luật định.

Dự toán ngân sách được xây dựng từ cơ sở, được tổng hợp trình Quốc hội, HĐND các cấp ở địa phương xem xét, quyết định. Do vậy, đã đảm bảo quản lí NSNN chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả, công khai minh bạch, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, an sinh xã hội, đầu tưu cho kết cấu hạ tầng đã có bước phát triển tích cực, đảm bảo quốc phòng an ninh.

Điều đáng buồn là dù ai cũng biết, công khai và minh bạch thông tin là cần thiết, nhưng vì sao thực hiện vẫn chưa tốt hoặc thực hiện cũng chủ yếu mang tính hình thức? Trong nhiều lĩnh vực khác, việc công khai còn được thực hiện dưới dạng công khai các thông tin, mà không ai cần, lại giấu đi những thông tin mọi người rất cần. Điển hình là việc công khai ngân sách nhà nước các cấp. Đánh giá được mức độ bức thiết của vấn đề, Luật NSNN 2015 đã quy định ngày càng cụ thể, chi tiết về thực hiện nguyên tắc công khai minh bạch NSNN.

Quy định về nguyên tắc công khai Ngân sách nhà nước được chứng minh đã thực hiện trong Luật Ngân sách nhà nước 2015

Những quy định về nguyên tắc công khai

Khoản 1 Điều 8 quy định rõ nguyên tắc quản lí Ngân sách Nhà nước: “1. Ngân sách nhà nước được quản lý thống nhất, tập trung dân chủ, hiệu quả, tiết kiệm, công khai, minh bạch, công bằng; có phân công, phân cấp quản lý; gắn quyền hạn với trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước các cấp.”

Như vậy, nguyên tắc công khai đã được khẳng định rõ là nguyên tắc xuyên suốt trong hoạt động quản lí Ngân sách nhà nước. Công khai ta có thể hiểu là công bố, thông báo để mọi người được biết, không giấu giếm, kết hợp với giải thích từ ngữ tại khoản 14 Điều 4 ta có thể hiểu Nguyên tắc Công khai Ngân sách nhà nước trong quản lí là việc quản lí “toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước được dự toán và thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước” phải được công bố, trình bày theo quy định cho những đối tượng cụ thể được quyền biết trong từng nội dung, nhằm đảm bảo quyền của người dân, các cơ quan ban ngành trong việc nắm bắt, giám sát hoạt động quản lí.

Luật Ngân sách Nhà nước 2015 đã quy định cụ thể về nguyên tắc trên tại Điều 15 luật này về Công khai ngân sách nhà nước.

Bằng cách phân tích các quy định và liên hệ thực tiễn, chứng minh Luật Ngân sách nhà nước 2015 đã thể hiện nguyên tắc công khai trong hoạt động ngân sách nhà nước

Phân tích – chứng minh nguyên tắc công khai được thể hiện trong Luật Ngân sách nhà nước 2015

Luật Ngân sách nhà nước được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 25/6/2015 (Luật Ngân sách nhà nước năm 2015), có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 2017 đã sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung quan trọng với mục tiêu là nâng cao tính minh bạch, dân chủ và công khai trong công tác quản lý NSNN; kiểm soát chặt chẽ hoạt động thu, chi ngân sách; nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong quản lý tài chính – NSNN bảo đảm thực hành tiết kiệm, chống lãng phí,… Theo đó, các quy định về công khai minh bạch ngân sách đã có những sửa đổi, bổ sung rõ ràng, minh bạch hơn. Cụ thể:

Ý kiến cá nhân khi đánh giá quy định pháp luật về công khai ngân sách
Ý kiến cá nhân khi đánh giá quy định pháp luật về công khai ngân sách

Về đối tượng công khai:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 15 Luật NSNN 2015 quy định đối tượng bao gồm:

Dự toán ngân sách nhà nước trình Quốc hội, HĐND; Dự toán ngân sách nhà nước đã được cấp có thẩm quyền quyết định; Báo cáo tình hình thực hiện ngân sách nhà nước; Quyết toán ngân sách nhà nước được Quốc hội, HĐND phê chuẩn; Dự toán, tình hình thực hiện, quyết toán ngân sách của các đơn vị dự toán ngân sách, các tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ và các chương trình, dự án đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn ngân sách nhà nước.

Các cấp ngân sách nhà nước, các đơn vị dự toán ngân sách, các tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ, các dự án đầu tư xây dựng cơ bản có sử dụng vốn ngân sách nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước, các quỹ có nguồn từ ngân sách nhà nước và các quỹ có nguồn thu từ các khoản đóng góp của nhân dân được cấp có thẩm quyền cho phép thành lập theo quy định của pháp luật phải thực hiện công khai số liệu thu – chi ngân sách.

Đồng thời, bổ sung quy định về công khai các thủ tục NSNN bao gồm: các quy định về quy trình, thủ tục kê khai, thu, nộp, miễn giảm, gia hạn, hoàn lại các khoản thu; tạm ứng, cấp phát, thanh toán ngân sách nhà nước đối với cơ quan thu, cơ quan tài chính và Kho bạc Nhà nước.

Về nội dung công khai, bổ sung quy định yêu cầu:

Nội dung công khai quy định tại Khoản 1 Điều 15, bao gồm: Số liệu và báo cáo thuyết minh dự toán ngân sách nhà nước trình Quốc hội, Hội đồng nhân dân, dự toán đã được cấp có thẩm quyền quyết định, tình hình thực hiện ngân sách nhà nước, quyết toán ngân sách nhà nước; Kết quả thực hiện các kiến nghị của Kiểm toán nhà nước, trừ số liệu chi tiết, báo cáo thuyết minh thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh, dự trữ quốc gia.

Công khai dự thảo dự toán ngân sách trình Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, qua đó tạo điều kiện cho người dân và các tổ chức xã hội giám sát công tác quản lý ngân sách từ khâu lập dự toán, bố trí ngân sách cho các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Đồng thời với việc công khai dự toán ngân sách từ khâu trình Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp giúp cho công tác công khai minh bạch ngân sách phù hợp với thông lệ Quốc tế, đặc biệt là Chỉ số Ngân sách mở (OBI) của Tổ chức Quan hệ đối tác ngân sách quốc tế IBP, yêu cầu cao việc công khai ngân sách từ khâu dự thảo ngân sách trình Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.

Công khai tình hình thực hiện dự toán ngân sách, cùng với báo cáo thuyết minh, giải trình ngân sách. Việc bổ sung thêm nội dung công khai tình hình thực hiện ngân sách giúp cho việc theo dõi thông tin công khai được liên tục từ khâu lập dự toán, thực hiện dự toán và quyết toán ngân sách; đồng thời, các báo cáo thuyết minh về dự toán, thực hiện dự toán và quyết toán ngân sách đi kèm với số liệu công khai ngân sách, giúp cho việc công khai gắn với minh bạch và tăng cường trách nhiệm giải trình của các cơ quan, đơn vị trong quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước.

Kết quả thực hiện các kiến nghị của cơ quan kiểm toán: Việc công khai báo cáo kết quả kiểm toán, cũng như kết quả thực hiện các khuyến nghị của kiểm toán giúp cho việc thực hiện các khuyến nghị kiểm toán được nghiêm túc và tăng cường giám sát của người dân đối với việc thực hiện các khuyến nghị, kết luận của cơ quan kiểm toán Nhà nước.

Về hình thức công khai

Việc công khai ngân sách nhà nước được thực hiện bằng một hoặc một số hình thứ: công bố tại kỳ họp, niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị; phát hành ấn phẩm thông báo bằng văn bản đến các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan; đưa lên trang thông tin điện tử; thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Đối với công khai thủ tục ngân sách, việc công khai được thực hiện bằng các hình thức niêm yết tại nơi giao dịch và công bố trên trang thông tin điện tử của cơ quan.

Về thời gian công khai ngân sách đã được rút ngắn so với quy định hiện hành, cụ thể: 

Báo cáo đề xuất dự toán ngân sách nhà nước phải được công khai chậm nhất là 05 ngày làm việc kể từ ngày Chính phủ gửi đại biểu Quốc hội, Ủy ban nhân dân gửi đại biểu Hội đồng nhân dân.

Báo cáo dự toán ngân sách nhà nước đã được cấp có thẩm quyền quyết định, báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước đã được cấp có thẩm quyền phê chuẩn, kết quả kiểm toán ngân sách nhà nước, kết quả thực hiện các kiến nghị của Kiểm toán nhà nước phải được công khai chậm nhất là 30 ngày kể từ ngày văn bản được ban hành (thay vì quy định 60 ngày như hiện nay).

Báo cáo tình hình thực hiện ngân sách nhà nước hàng quý, 06 tháng phải được công khai chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày kết thúc quý và 06 tháng.

Báo cáo tình hình thực hiện ngân sách nhà nước hàng năm được công khai khi Chính phủ trình Quốc hội vào kỳ họp cuối năm và kỳ họp giữa năm sau.

Về trách nhiệm công khai ngân sách

Bộ Tài chính thực hiệncông khai những nội dung theo quy định đối với ngân sách nhà nước và ngân sách trung ương. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện công khai hoặc giao Sở tài chính thực hiện công khai các nội dung theo quy định đối với ngân sách cấp tỉnh và địa phương. Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện công khai hoặc giao cho Phòng Tài chính – Kế hoạch huyện thực hiện công khai các nội dung theo quy định đối với ngân sách cấp huyện. Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện công khai các nội dung ngân sách xã và các hoạt động tài chính khác ở xã.

Về giám sát ngân sách nhà nước của cộng đồng, bổ sung một Điều quy định về việc giám sát ngân sách nhà nước của cộng đồng, trong đó quy định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp chủ trì tổ chức việc giám sát ngân sách nhà nước của cộng đồng.

Nội dung giám sát ngân sách nhà nước của cộng đồng gồm:

Việc chấp hành các quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước;

Tình hình thực hiện dự toán ngân sách nhà nước hàng năm;

Việc thực hiện công khai ngân sách nhà nước theo quy định của Luật NSNN.

Bộ Tài chính đang tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách nhà nước, trong đó quy định hệ thống biểu mẫu, thông tin công khai ngân sách phù hợp với từng đối tượng, đảm bảo yêu cầu đơn giản, dễ hiểu và cung cấp đầy đủ, kịp thời và chính xác các thông tin, số liệu trong quá trình lập, chấp hành và quyết toán ngân sách nhà nước để mọi tổ chức, cá nhân có thể theo dõi, kiểm tra và giám sát việc quản lý ngân sách nhà nước./.


Thực tiễn thực hiện nguyên tắc công khai trong hoạt động Ngân sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Thực tiễn và đánh giá hiệu quả áp dụng pháp luật về công khai ngân sách nhà nước

Việc công khai ngân sách theo quy định của Luật NSNN 2015 bước đầu đã phát huy được tác dụng; công tác kiểm tra nội bộ, cấp trên và cấp dưới được tăng cường và từng bước phát huy vai trò giám sát của các đoàn thể, quần chúng nhân dân, người lao động đã góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng. Đồng thời, đã tạo được kênh thông tin quan trọng phục vụ cho việc phân tích đánh giá, nghiên cứu về tài chính – ngân sách của các tổ chức, cá nhân, được các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước ủng hộ.

Kết quả khảo sát ngân sách Việt Nam cho thấy: Chỉ số công khai ngân sách mở của Việt Nam công bố năm 2015 (OBI2015) là 18 điểm trên tổng điểm 100. Mức điểm này gần như không thay đổi so với đánh giá năm 2012 (19/100) và thấp hơn khá nhiều so với mức trung bình toàn cầu (45 điểm). Điều này cho thấy công chúng đước cung cấp ít thông tin về ngân sách. Tuy nhiên, so sánh với các nước trong khu vực, mức độ công khai ngân sách Việt Nam cao hơn Trung Quốc, Campuchia, Myanma nhưng thấp hơn nhiều các nước Đông Nam Á khác như Philipin, Indonexia, Malaixia và Thái Lan.

Điểm xếp hạng ba trụ cột của xếp hạng công khai ngân sách của Việt Nam có những thay đổi đáng ghi nhân. Sự tham gia của công chúng đối với các vấn đề ngân sách đạt 42/100 điểm thứ hạng và ở mức độ hạn chế. Tuy nhiên, ở cột này, Việt nam xếp cao hơn mức trung bình 25 điểm của toàn cầu và phần lớn các nước trong khu vực.

Về trụ cột giám sát ngân sách của cơ quan lập pháp và kiểm toán, Việt Nam được đánh giá là đầy đủ với 61/100 điểm xếp hạng đối với cơ quan lập pháp và 75/100 điểm thứ hạng với cơ quan kiểm toán. Theo Báo cáo đề dẫn về công khai minh bạch ngân sách của Việt Nam và việc thực hiện Luật Ngân sách Nhà nước năm 2015 công bố tại Hội thảo, Chỉ số công khai ngân sách của Việt Nam có xu hướng tăng qua các kỳ đánh giá. Tính công khai của các tài liệu ngân sách (bao gồm 8 loại tài liệu như: định hướng xây dựng ngân sách, dự thảo dự toán ngân sách, dự toán ngân sách, ngân sách công, báo cáo quý (kỳ), báo cáo giữa kỳ (6 tháng), báo cáo cuối năm, báo cáo kiểm toán) đã có nhiều tiến bộ, đặc biệt là dự toán ngân sách nhà nước sau khi được Quốc hội thông qua, các báo cáo giữa kỳ và cuối năm.

Từ năm 2015, Chính phủ đã công bố bản báo cáo NSNN, cho dù các dự thảo dự toán về ngân sách trước khi trình Quốc hội vẫn chưa được công khai và công chúng ít được tham gia vào quá trình xây dựng ngân sách ở các cấp. TS Trịnh Tiến Dũng – chuyên gia tư vấn cao cấp của Chương trình phát triển liên hợp quốc (UNDP) và Ngân hàng Thế giới (WB) khẳng định, báo cáo NSNN dành cho công dân đã được Việt Nam tiến hành 3 năm liên tục kể từ năm 2015 đến nay là một bước tiến bộ. Dù vậy, ông Dũng nhìn nhận, hạn chế của báo cáo NSNN cho công dân hiện nay là thời điểm cung cấp khá muộn, thường là hơn một tháng sau khi Quốc hội phê chuẩn NSNN.

Theo thống kê từ Bộ Tài chính, hiện nay các thông tin tài chính nhà nước cơ bản đã được theo dõi, thể hiện từng phần hoặc khá chi tiết trên báo cáo tài chính của các đơn vị, theo quy định của chế độ kế toán áp dụng cho từng đơn vị cụ thể. Tuy nhiên, do đặc thù của yêu cầu quản lý, đặc điểm của hệ thống kế toán mà những thông tin đó còn khá rải rác, phân tán. Vẫn còn một số đối tượng kế toán mới chỉ được theo dõi chủ yếu dưới hình thức thống kê mà chưa được hạch toán kế toán một cách đầy đủ (các khoản công nợ, tài sản nhà nước, tài sản của nhà nước tại doanh nghiệp, các khoản nợ của Chính phủ, các công trình kết cấu hạ tầng). Bên cạnh đó, các thông tin này cũng chưa được tổng hợp một cách đầy đủ và bài bản theo đúng yêu cầu của quản lý tài chính nhà nước.

Năm 2016, kết quả khảo sát công khai ngân sách do Tổ chức Hợp tác Ngân sách Quốc tế (IBP) phối hợp với Trung tâm Phát triển và Hội nhập (CDI) cho biết, Việt Nam đứng trong tốp 30 quốc gia có chỉ số công khai ngân sách thấp nhất trong 100 quốc gia.

Đầu năm 2015, Ủy ban Tài chính, ngân sách của Quốc hội đã tổ chức Diễn đàn góp ý cho Dự thảo Luật Ngân sách Nhà nước. Đã cho thấy thực trạng mù thông tin về NSNN của người dân. Như tại Bắc Giang, có đến 37,7% – 43,2% người dân được hỏi không biết rằng ngân sách được chi cho phát triển kinh tế, bảo đảm an ninh quốc phòng và hoạt động của bộ máy Nhà nước; từ 59,7% đến 63,1% số người được hỏi không biết rằng, ngân sách được chi trả nợ của Nhà nước và chi viện trợ.

Thực tiễn thế giới cũng đã chứng minh, việc thực hiện công khai và minh bạch luôn gặp những thách thức vô cùng lớn ở các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi. Lý do chủ yếu là tư tưởng phong kiến và tư tưởng bao cấp vẫn còn tồn tại như “hòn đá tảng” trong tư duy quản lý.

Tại Việt Nam, nhiều năm qua đã tồn tại một thực trạng: Qua công tác thanh tra, kiểm toán phát hiện nhiều sai phạm, thất thoát lớn về tiền, tài sản, nhưng hầu hết là kiến nghị xử lý hành chính; số vụ tham nhũng chuyển cơ quan điều tra xử lý hình sự rất ít. Trong quá trình thanh tra, cơ quan thanh tra phát hiện có dấu hiệu tội phạm, nhưng không chuyển ngay cho cơ quan điều tra xử lý theo quy định, mà phải chờ đến khi có kết luận thanh tra mới chuyển, gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc thu thập chứng cứ, phát hiện và xử lý tội phạm tham nhũng. Theo báo cáo của Thanh tra Chính phủ, trong thời gian, qua các cấp, các ngành đã tiến hành thanh tra trên 62.000 vụ việc, song mới phát hiện và chuyển cơ quan điều tra có 464 vụ việc, chỉ chiếm có 0,6% tổng số vụ thanh tra. Nhiều đại biểu quốc hội đã phải đặt câu hỏi phải chăng có xu hướng hành chính hóa các vụ án hình sự liên quan đến tham nhũng, hoặc có sự “nắn dòng, bẻ ghi” làm chuyển hướng kết quả thanh tra?

Luật ngân sách nhà nước 2015 đã thể hiện tốt hơn nguyên tắc công khai trong hoạt động ngân sách nhà nước

Từ những phân tích về các quy định của luật ngân sách nhà nước 2015 về công khai ngân sách nhà nước ta có thể thấy, luật ngân sách 2015 đã có những thay đổi rất lớn trong quy định về vấn đề công khai. Quy định chi tiết hơn các vấn đề liên quan đến việc công khai mà không còn những quy định chung chung như luật cũ.

Điều 15 thể hiện khá đầy đủ các yêu cầu về nội dung công khai, phạm vi công khai, hình thức công khai và trách nhiệm phải thực hiện công khai. Điều đó chứng tỏ được tầm quan trọng của nguyên tắc này trong các toàn bộ các khâu của quy trình ngân sách, bao gồm cả lập dự toán và chấp hành dự toán, cũng như trong kiểm tra, thanh tra, giám sát việc chấp hành ngân sách của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

Ngoài các quy định mới về việc công khai minh bạch trong quản lý ngân sách thì luật ngân sách nhà nước 2015 cũng có sự đổi mới trong các quy định liên quan giúp thực hiện chặt chẽ và thống nhất hơn các quy định trong luật cũng như thực hiện có hiệu quả nguyên tắc này. Chẳng hạn:

Thứ nhất, Quy định về tính thống nhất của hệ thống ngân sách từ khâu phân phối nguồn thu, chi

Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 quy định về phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi, theo đó ngân sách trung ương đóng vai trò chủ đạo, đúng như quy định của Hiến pháp năm 2013. Quy định về phân cấp đã làm tăng tính chủ động, tích cực của chính quyền địa phương trong việc xác định và phân bổ, sử dụng các nguồn lực để thực hiện nhiệm vụ chi đã phân cấp, hạn chế tư tưởng trông chờ vào ngân sách cấp trên. Tính hiệu quả của ngân sách cũng được thể hiện trong quy định về chi ngân sách và điều kiện chi ngân sách (Điều 12): Đối với hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản phải đáp ứng điều kiện của luật đầu tư công và luật xây dựng; đối với chi thường xuyên phải đảm bảo đúng chế độ, định mức, tiêu chuẩn chi. Đó chính là cách để kiểm soát chi tiêu ngân sách có hiệu quả và đúng mục đích, bên cạnh đó, thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách chịu trách nhiệm về việc quản lý, sử dụng ngân sách theo dự toán được giao, bảo đảm hiệu quả, tiết kiệm… (Điều 25 Luật Ngân sách nhà nước năm 2015). Đối với Việt Nam, phương thức đo lường hiệu quả quản lý ngân sách bằng kết quả đầu ra là phương thức mới, cần có khuôn khổ pháp lý đi kèm để đảm bảo thực hiện, vì trước đây chúng ta quản lý ngân sách chủ yếu dựa trên các yếu tố đầu vào, ngân sách có quy mô nhỏ và sử dụng dàn trải.

Thứ hai, Việc hình thành các trung tâm mua sắm tài sản công – dấu hiệu của việc sử dụng nguồn tài chính công minh bạch, hiệu quả.

Mua sắm công theo phương thức tập trung là công cụ đã được nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế áp dụng thành công để cắt giảm chi tiêu công. Pháp luật các quốc gia đều rất quan tâm và ghi nhận cơ sở để sử dụng hiệu quả nhất kinh phí từ ngân sách nhà nước.

Ở Việt Nam, để giảm thiểu chi phí trung gian và chống gian lận trong mua sắm, quản lý tài sản nhà nước, từ năm 2013, các bộ, ngành và địa phương thực hiện mua sắm tài sản công từ nguồn ngân sách nhà nước theo nguyên tắc triệt để tiết kiệm, đúng tiêu chuẩn, định mức và chế độ. Việc thí điểm thực hiện mua sắm tài sản nhà nước theo Quyết định 179/2007/QĐ-TTg ngày 26/11/2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế tổ chức mua sắm tài sản, hàng hoá từ ngân sách nhà nước theo phương thức tập trung là có hiệu quả, tiết kiệm chi phí và thời gian mua sắm phù hợp với thông lệ quốc tế. Hiện nay, Quyết định 08/2016/QĐ-TTg ngày 26/02/2016 quy định việc mua sắm tài sản nhà nước theo phương thức tập trung. Tuy nhiên, việc mua sắm tập trung chưa có tính bắt buộc chung, quy trình mua sắm chưa thực sự phù hợp, đơn vị và cán bộ mua sắm tập trung chưa được chuyên nghiệp hóa.

Thứ ba, Quy định về đầu tư công với những dẫn chiếu những luật liên quan – dấu hiệu cho một hoạt động đầu tư có hiệu quả và đúng mục đích

Quản lý và sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước không chỉ chịu sự điều chỉnh của Luật Ngân sách nhà nước, mà còn được điều chỉnh bằng nhiều văn bản luật có liên quan như: Luật Xây dựng, Luật Đấu thầu, Luật Đất đai… với mục đích sử dụng có hiệu quả và đúng mục đích nguồn vốn của Nhà nước.

Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 chỉ rõ trách nhiệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc xây dựng kế hoạch phân bổ ngân sách ngân sách trung ương cho đầu tư phát triển, tham gia xây dựng kế hoạch tài chính trung hạn, dự toán ngân sách hàng năm (Điều 27). Về điều kiện chi ngân sách cho đầu tư phát triển cũng được khẳng định tại Điều 12 Luật Ngân sách Nhà nước năm 2015, theo đó chi đầu tư xây dựng cơ bản phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật về đầu tư công và xây dựng.

Như vậy, có thể thấy, những thay đổi trong quy định của luật ngân sách nhà nước 2015 so với luật ngân sách nhà nước 2002 đã được thể hiện tốt hơn về nguyên tắc công khai trong quản lý ngân sách nhà nước và cũng khẳng định tầm quan trọng và sự ảnh hưởng của việc công khai ngân sách.

Ý kiến cá nhân khi đánh giá quy định pháp luật về công khai ngân sách
Ý kiến cá nhân khi đánh giá quy định pháp luật về công khai ngân sách

Một số phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong công khai Ngân sách nhà nước

Từ thực tế trên, TS Trịnh Tiến Dũng cho rằng, Việt Nam hoàn toàn có thể làm tốt hơn báo cáo NSNN cho công dân bằng việc cung cấp thông tin thực sự hữu ích, giúp công dân giám sát chính quyền. Đặc biệt, báo cáo NSNN phải dựa trên nhu cầu thông tin của các nhóm đối tượng được khảo sát một cách thực sự khoa học và thực tiễn; phải liên tục thay đổi những nội dung trong báo cáo theo hướng mỗi năm chỉ đi sâu vào một số vấn đề “nóng” thu hút sự quan tâm của người dân. Cụ thể như: các sắc thuế; phí đường bộ BOT; giá điện, nước, xăng dầu; chi NSNN cho một số lĩnh vực thiết yếu như giáo dục, y tế; các khoản chi và cơ cấu chi trợ cấp cho học sinh của các nhóm dân cư…

Tiếp thu những ý kiến này, bà Trần Kim Hiền – đại diện Vụ Ngân sách Nhà nước (Bộ Tài chính) cho biết, trong thời gian tới Bộ Tài chính sẽ tiếp tục hướng đến mục tiêu xây dựng báo cáo NSNN cho công dân theo hướng ngắn gọn, dễ hiểu, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận tốt nhất về quản lý ngân sách để họ có thể tham gia ý kiến đối với công tác quản lý ngân sách của Chính phủ ngày càng hoàn thiện. Đồng thời, sẽ tiếp tục nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế để đánh giá đúng thực trạng và nhu cầu tìm hiểu thông tin về quản lý NSNN của người dân để hoàn thiện báo cáo ở cấp trung ương và thí điểm nghiên cứu áp dụng ở cấp địa phương. Đồng thời đăng tải công khai trên cổng thông tin điện tử hoặc in tờ rơi, phát trực tiếp tại các cuộc họp báo của Bộ Tài chính.

Kể từ năm 2015 đến nay, nội dung báo cáo NSNN cho công dân chủ yếu bao gồm các nội dung chính như: mục tiêu nhiệm vụ NSNN; một số chỉ tiêu kinh tế cơ bản; dự kiến thu và các giải pháp nhằm thực hiện nhiệm vụ thu NSNN; dự toán chi và quản lý chi NSNN; bội chi ngân sách và dư nợ công…

Để giải quyết tình trạng này và nâng cao năng lực giám sát của người dân với NSNN có thể thực hiện một số giải pháp sau: đối với chủ thể có nghĩa vụ phải công khai tài chính, về nội dung công khai kèm Báo cáo quyết toán của đơn vị sử dụng ngân sách, đơn vị dự toán cấp trên, ngân sách các cấp phải kèm theo thuyết minh đánh giá kết quả, hiệu quả chi ngân sách gắn với kết quả thực hiện nhiệm vụ của đơn vị, địa phương, lĩnh vực, chương trình, mục tiêu được giao phụ trách.

Đối với chủ thể giám sát, nội dung giám sát và phương thức giám sát: Tăng cường hơn nữa hoạt động giám sát của các cơ quan có chức năng kiểm tra, kiểm toán NSNN, còn đối với nhân dân: thông tin ngân sách công bố cho công chúng là tài liệu trình bày dưới dạng thức đơn giản, không bao gồm hoặc rất ít các thuật ngữ kỹ thuật, nhằm cung cấp cho người dân kế hoạch thu, chi ngân sách trong năm của Chính phủ. Ngân sách công dân có thể được chuẩn bị dưới nhiều dạng để có thể đăng báo, phát trên đài truyền hình, đài tiếng nói hoặc trình bày trong các cuộc họp cộng đồng.

Vì thế, công khai, minh bạch ngân sách nhà nước còn góp phần quan trọng củng cố niềm tin của người dân đối với hoạt động quản lý, điều hành của Nhà nước. Thực ra, trong hệ thống pháp luật của nước ta hiện nay, các quy định về công khai, minh bạch ngân sách đã khá đầy đủ. Thực hiện đến nơi đến chốn các quy định ấy thì ngân sách quốc gia sẽ minh bạch.Việc công bố công khai, minh bạch ngân sách cần phải được thực hiện một cách thực chất hơn. Công khai, minh bạch ngân sách phải gắn liền với công tác chuẩn hóa thống kê. Trước tiên là yêu cầu chuẩn hóa theo chuẩn mực thống kê của Việt Nam rồi tiến dần tới chuẩn hóa thống kê của thế giới. Với những quy định mới trong nghị định 25 về báo cáo tài chính được kỳ vọng sẽ tạo ra những bước đột phá trong vấn đề quản lý các doanh nghiệp tại trung ương và chính quyền địa phương.

Bên cạnh đó thực hiện đồng thời một số biện pháp cụ thể như theo quy định của pháp luật nhưng một cách thực chất hơn, rõ ràng hơn và có hiệu quả hơn. Dán niêm yết tại trụ sở hành chính. Nghiên cứu đã chứng minh rằng, có sự cải thiện ở một số khía cạnh trong công khai thông tin trên mạng. Có một số tỉnh làm tốt và cũng có một số tỉnh bị tụt hậu. Mặc dù việc xếp hạng như vậy chỉ mang tính tương đối và sự khác biệt giữa những tỉnh đứng gần nhau cũng không đáng kể, nhưng dù sao cũng là một đánh giá có những tác động tích cực. Các đợt kiểm tra trực tuyến cũng cho thấy, có sự cải thiện đáng kể trong việc công khai trực tuyến loại thông tin không bắt buộc công khai theo quy định của pháp luật. Tỷ lệ các tỉnh công khai các quyết định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và quyết định về giao đất trên trang web đã tăng lên đáng kể, nhưng tỷ lệ các tỉnh cung cấp các tiêu chí giao đất trên mạng lại không đáng kể. Nên ưu tiên những nội dung sau để cải thiện mức độ minh bạch ngân sách, đó là: Công bố dự thảo dự toán ngân sách của cơ quan hành pháp khi dự thảo ngân sách được trình lên Quốc hội; công bố kịp thời báo cáo kiểm toán và báo cáo giữa kỳ. Tăng cường sự tham gia của công chúng vào quy trình ngân sách, không chỉ lấy ý kiến ban đầu còn để nhân dân đánh giá về dự toán, góp ý và xây dựng dự toán.

Củng cố năng lực giám sát thông qua việc thiết lập một bộ phận nghiên cứu ngân sách riêng cho cơ quan lập pháp. Việc giám sát thi hành của cơ quan hành pháp là vô cùng quan trọng, cần sát sao hơn trong việc giám sát, hướng dẫn thực hiện công khai ngân sách nhà nước. Các quy trình, thủ tục, nội dung cần thực hiện đúng, đủ để mang lại hiệu quả, thể hiện tính áp dụng cao của quy định pháp luật. Ngoài ra cần có những quy định xử lí không chỉ mang tính chất hành chính răn đe, cần kết hợp với các quy định của Luật khác, của Nghị định Chính phủ nhằm mang sự công khai, minh bạch đến gần với người dân hơn và nâng cao trách nhiệm thực hiện đối với các cơ quan Nhà nước.

Hiện nay, chúng ta đang ra sức nỗ lực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực nhưng đạt kết quả thấp. Trong đó, có nguyên nhân việc cấp, quản lý, sử dụng, chi tiêu ngân sách của một số cơ quan nhà nước còn mập mờ, thiếu minh bạch. Điều này đã tạo kẻ hở cho những người có chức, có quyền trong quản lý ngân sách nhưng thoái hóa biến chất có điều kiện, cơ hội để thực hiện hành vi chiếm đoạt, lãng phí.

Đồng thời, việc công khai minh bạch nhằm tạo dựng niềm tin của người dân, doanh nghiệp, nhà đầu tư và các định chế quốc tế vào Chính phủ, thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn lực từ đó thúc đẩu phát triển bền vững và công bằng. Chính vì lẽ đó, Đảng và Nhà nước đang cố gắng xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện hơn, hiệu quả hơn và việc áp dụng pháp luật được tiến hành thực tế, thực chất để phát huy hết ý nghĩa của công tác công khai minh bạch Ngân sách nhà nước. Muốn vậy, cần sự đoàn kết thực hiện của các cấp chính quyền và sự góp ý của cả quần chúng nhân dân.


Trên đây là toàn bộ thông tin mà chúng tôi cung cấp đến bạn về vấn đề: Bằng cách phân tích các quy định và liên hệ thực tiễn, chứng minh Luật Ngân sách nhà nước 2015 đã thể hiện nguyên tắc công khai trong hoạt động ngân sách nhà nước. Để được tư vấn cụ thể hơn bạn vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn luật trực tuyến qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy.

Trân trọng./.

phone-call

GỌI HỎI ĐÁP MIỄN PHÍ

Scroll to Top