Phân tích những đặc trưng của thuế thu nhập cá nhân? Tại sao pháp luật thuế thu nhập cá nhân lại phân biệt việc đánh thuế giữa thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương, tiền công với các khoản thu nhập khác chịu thuế? Tìm hiểu những thủ đoạn chủ yếu để một cá nhân gian lận thuế thu nhập cá nhân hiện nay và cho ví dụ thực tiễn để minh họa

      Như chúng ta biết thuế đã trở thành nguồn thu nhập chủ yếu của ngân sách quốc gia là công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước đối với nên kinh tế và xã hội. Bên cạnh đó, hệ thống thuế ở nước ta còn nhiều hạn chế,đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân (TNCN) hiện đang còn trong tình trạng chưa chặt chẽ đồng bộ, chưa đảm bảo tính công bằng ổn định, khó quản lí, còn nhiều kẽ hở để đối tượng nộp thuế gian lận tiền thuế; ngoài ra khả năng điều tiết thu nhập trong dân cư còn hạn chế. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, em xin lựa chọn đề bài số 15: “Phân tích những đặc trưng của thuế thu nhập cá nhân? Tại sao pháp luật thuế thu nhập cá nhân lại phân biệt việc đánh thuế giữa thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương, tiền công với các khoản thu nhập khác chịu thuế? Tìm hiểu những thủ đoạn chủ yếu để một cá nhân gian lận thuế thu nhập cá nhân hiện nay và cho ví dụ thực tiễn để minh họa”  làm đề bài tập lớn môn luật tài chính của mình.


Danh mục từ viết tắt:

TNCN Thu nhập cá nhân
NSNN Ngân sách nhà nước
BĐS Bất động sản
UBND Ủy ban nhân dân

Danh mục tài liệu tham khảo

  • Giáo trinh luật thuế Việt Nam, trường đại học luật Hà Nội, NXB CAND, năm 2016
  • Khóa luận tốt nghiệp,chế độ thuế thu nhập cá nhân đối với những khoản thu nhập không thường xuyên, Hoàng Thị Huế.
  • Khóa luận tốt nghiệp, một số vấn đề pháp lý về thu nhập chịu thế thu nhập cá nhân, Lê Thị Hồng Nhung
  • Khóa luận tốt nghiệp, Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam – thực trạng và hướng hoàn thiện, Trần Thị Mai Thu.

Thuế thu nhập cá nhân và đặc trưng của thuế thu nhập cá nhân

Khái niệm thuế thu nhập cá nhân

      Thu nhập có thể hiểu là tổng thể các nguồn thu của một cá nhân xác định trong một khoảng thời gian nhất định. Thuế TNCN là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập chịu thuế thực nhận của cá nhân trong một năm hoặc từng lần phát sinh. Thuế TNCN không chỉ nhằm mục đích tạo lập nguồn thu cho ngân sách NN mà còn thực hiện điều hòa thu nhập giữa các tầng lớp dân cư đảm bảo sự công bằng xã hội.

      Thuế TNCN là một loại thuế trực thu đánh trên thu nhập của các cá nhân trong từng thời kì. Khi đề cập đến khái niệm thu nhập cá nhân các nhà làm luật Việt Nam cũng thường thể hiện dưới dạng liệt kê các loại thu nhập. Việc quy định như vậy là khoa học và phù hợp với thực tiễn, tránh được sự bỏ sót các nguồn thu – nguyên nhân chính tạo ra sự bất bình đẳng khi đánh thuế và cũng gây ra sự thất thu cho ngân sách nhà nước.

Đặc trưng của thuế thu nhập cá nhân (Pháp lệnh trong phần … là năm bao nhiêu?)

      Thứ nhất, thuế TNCN là một loại thuế trực thu đánh trực tiếp vào thu nhập của mỗi cá nhân.

      Thuế trực thu là loại thuế mà chủ thể nộp thuế cũng đồng thời là chủ thể gánh chịu thuế, nghĩa là chủ thể nộp thuế sẽ mất một phần thu nhập của mình vì thuế. Tính trực thu thể hiện ở chỗ người nộp thuế không đồng thời là người chịu thế, người chịu thuế không có khả năng giao nghĩa vụ chịu thuế sang cho các đối tượng khác tại thời điểm đánh thuế. Không giống như các loại thuế gián thu , ví dụ thuế tiêu dùng, khoản thuế được tính sẵn trong giá thanh toán nên không ảnh hưởng nhiều đến tâm lí của người mua về khoản thuế mà mình phải nộp, thuế trực thu có thể hiểu là nhà nước trực tiếp thò tay vào túi của chúng ta và lấy tiền của ta ra, điều đo chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến tâm lí của người nộp thuế. Chính vì vậy,mỗi khi chính phủ có những thay đổi trong chính sách thuế TNCN như việc điều chỉnh thuế suất hay thay đổi phạm vi các đối tượng được miễn giảm thuế thì đều gây ra những phản ứng mạnh mẽ trong dân cư. Tại Việt Nam, khi pháp lệnh năm …ra đời  thì người nước ngoài làm ăn ở Việt Nam phản ứng khá quyết liệt khi thấy rằng thuế suất thuế TNCN đối với họ là quá cao, do lúc đó thu nhập trung bình của nước ta vẫn còn thấp trong khi đó lương trả cho các chuyên gia nước ngoài thì cao hơn nhiều so với trong nước. Ở đây ta muốn khẳng định lần nữa là thuế TNCN là thuế mang đặc điểm là loại thuế trực thu và phạm vi điều tiết rất rộng nên nó có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến tâm lí dân cư.

      Thuế TNCN có đối tượng nộp thuế chỉ là các cá nhân có thu nhập chịu thuế. Đối tượng nộp thuế là tất cả các cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam và cá nhân không cư trú có thu nhập chịu thuế phát sinh tỏng lãnh thổ Việt Nam. Diện chịu thuế là hầu hết các khoản thu nhập cảu cá nhân nhận được đều bị đánh thuế không phân biệt nguồn gốc phát sinh, nhận được thường xuyên hay không thường xuyên.

      Thứ hai, TNCN có diện đánh thuế rất rộng, thể hiện trên 2 khía cạnh. Một là, đối tượng đánh thuế TNCN là toàn bộ các khoản thu nhập của cá nhân thuộc diện không đánh thuế không phân biệt thu nhập đó có nguồn gốc phát sinh trong nước hay nước ngoài. Hai là, đối tượng phải kê khai nộp thuế TNCN là toàn bộ những người có thu nhập, bao gồm tất cả công dân Việt nam và những người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài cư trú thường xuyên hay không thường xuyên nhưng có số ngày có mặt, làm việc, có thu nhập theo quy định của luật thuế TNCN.

      Thứ ba, xét dưới góc độ kĩ thuật, thuế TNCN có cách tính thuế khá phức tạp bởi diện đánh thuế rộng,liên quan chặt chẽ với hoàn cảnh cá nhân, chính sách xã hội, có áp dụng phương pháp lũy tiến. Có như vậy mới đảm bảo công bằng xã hội, người có thu nhập cao hơn thì trước và sau khi nộp thuế, họ vẫn còn một khoảng thu nhập cao hơn so với người thu nhập thấp khi chưa nộp thuế. Xét về góc độ kinh tế, thuế thu nhập cá nhân không làm thay đổi nhiều đến sự thay đổi cơ cấu kinh tế. Tính trung lập của loại thuế này cao hơn mọi loại thuế khác.Việc tăng hay giảm thuế hầu như không kéo theo biến đổi về kinh tế.

      Thứ tư, thu nhập chịu điều tiết của thuế sẽ căn cứ cụ thể nguồn gốc phát sinh của các khoản thu nhập và căn cứ vào đặc điểm cư trú hay một số đặc điểm khác tùy theo luật của từng nước. Thông thường các nước vẫn sử dụng nguyên tắc cư trú để đánh thuế TNCN. Quan niệm về nơi cư trú giữa các quốc gia gần như có sự tương đồng. Theo quy định của pháp luật thuế thu nhập cá nhân thì đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân bao gồm cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam và cá nhân không cứ trú có thu nhập chịu thuế phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam.

      Cá nhân cư trú là người đáp ứng một trong các điều kiện sau :

      Có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên tính trong một năm dương lịch hoặc tính theo 12 tháng liên trục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam.

      Có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam , bao gồm có nơi ở đăng ký thường trú hoặc có nhà thuê để ở tại Việt Nam theo hợp đồng thuê có thời hạn.

      Cá nhân không cư trú là người không đáp ứng điều kiện quy định trên.

      Thứ năm,thuế TNCN thông thường là loại thuế lũy tiến. Các nước thường xây dựng một biểu thuế lũy tiến, các bậc tương ứng với mức thu nhập càng cao thì mức thuế suất biên càng cao. Do đó những người có thu nhập càng cao thì phải chịu mức thuế đóng góp cao hơn so với những người có mức thu nhập thấp hơn. Nó góp phần đảm bảo tính chất công bằng  trong phân phối xã hội, công bằng ở đây là công bằng theo chiều dọc. Biểu thuế lũy tiến được xây dựng căn cứ vào nguyên tắc đánh thuế dựa vào khả năng nộp thuế của các cá nhân khác nhau. Những người có thu nhập cao thì có nhiều khả năng nộp thuế cao hơn những người có thu nhập thấp và ngược lại.

      Thứ sáu,thuế TNCN là một loại thuế phức tạp và mang tính trung lập đối với cơ cấu kinh tế. Do đặc điểm là điều tiết lên thu nhập của dân cư, phạm vi điều chỉnh rất rộng nên việc quản lí đối với loại thuế này là hết sức khó khăn. Nó dễ gây phản ứng cho người nộp thuế. Đồng thời do tính chất phân tán và động của đối tượng chịu thuế và nguồn thuế nên công tác quản lí thu thuế rất khó khăn. Chính vì đặc điểm này mà chi phí tiến hành thu thuê TNCN là rất cao.

      Để hướng tới mục tiêu công bằng dọc các nước thường quy định thu nhập bình quân làm căn cứ tính thuế theo hai cơ sở: Thu nhập bình quân chịu thuế được xác định theo từng cá nhân. Mỗi cá nhân được chọn làm cơ sở tính thuế. Cách tính này đơn giản, dễ áp dụng nhưng những mục tiêu công bằng đạt được chưa cao. Các nước áp dụng theo nguyên tắc này thường kèm theo những quy định khấu trừ hay trước giảm theo gia cảnh một số chi phí nhất định cho việc thực hiện nghĩa vụ đối với gia đình.

      Thu nhập bình quân chịu theo thuế xác định theo hộ gia đình. Thu nhập bình quân/ người/ hộ gia đình sẽ là thu nhập tính thuế. Số thuế thu sát với khả năng nộp thuế của các cá nhân và qua đó mục tiêu công bằng có khả năng đạt được nhiều hơn. Tuy nhiên cách thu này hoàn toàn không đơn giản và đòi hỏi nhiều điều kiện mới có thể tổ chức quản lý thu tốt.


Pháp luật thuế thu nhập cá nhân phân biệt việc đánh thuế thu nhập từ kinh doanh , từ tiền lương, tiền công với các khoản thu nhập khác chịu thuế

Xác định thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương, tiền công với các khoản thu nhập khác chịu thuế

      Nhóm 1: Thu nhập từ hoạt động kinh doanh và thu nhập từ tiền lương, tiền công: Thu nhập từ kinh doanh: Là thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ; thu nhập từ hoạt động hành nghề độc lập của cá nhân có giấy phép hoặc chứng chỉ hành nghề theo quy định của pháp luật. Thu nhập từ kinh doanh quy định trên không bao gồm thu nhập của cá nhân kinh doanh có doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở xuống.

      Thu nhập từ tiền lương, tiền công, gồm: Tiền lương, tiền công và các khoản có tính chất tiền lương, tiền công; các khoản phụ cấp, trợ cấp tiền thù lao dưới các hình thức; tiền nhận được từ tham gia hiệp hội kinh doanh, hội đồng quản trị, ban kiểm soát, hội đồng quản lý và các tổ chức; các khoản lợi ích khác mà đối tượng nộp thuế nhận được bằng tiền hoặc hiện vật; tiền thưởng (trừ các khoản tiền thưởng kèm theo các danh hiệu, tiền thưởng về việc phát hiện, khai báo hành vi vi phạm pháp luật với cơ quan nhà nước có thẩm quyền … không chịu thuế).

      Có thể thấy rằng khoản thu nhập của cá nhân từ kinh doanh, tiền công tiền lương là những khoản thu nhập có tính chất tương đối thường xuyên ổn định, có tính chất đều đặn và ổn định trong năm và có thể dự tính được. Nhóm thu nhập này có tính chất thường xuyên và được áp dụng theo Biểu thuế luỹ tiến từng phần.

      Nhóm 2: Các khoản thu nhập khác, bao gồm: 1. Thu nhập từ đầu tư vốn:Tiền lãi cho vay; lợi tức cổ phần; thu nhập từ đầu tư vốn dưới các hình thức khác, trừ thu nhập từ lãi trái phiếu Chính phủ. 2. Thu nhập từ chuyển nhượng vốn. 3. Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản: Thu nhập từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất; thu nhập từ chuyển nhượng quyền sở hữu hoặc sử dụng nhà ở; thu nhập từ chuyển nhượng quyền thuê đất, thuê mặt nước; các khoản thu nhập khác nhận được từ chuyển nhượng bất động sản. 4. Thu nhập từ trúng thưởng: Trúng thưởng xổ số; trúng thưởng trong các hình thức khuyến mại; trúng thưởng trong các hình thức cá cược, casino; trúng thưởng trong các trò chơi, cuộc thi có thưởng và các hình thức trúng thưởng khác.5. Thu nhập từ bản quyền.6. Thu nhập từ nhượng quyền thương mại. 7. Thu nhập từ nhận thừa kế. 8. Thu nhập từ nhận quà tặng.

      Đây là những khoản thu phát sinh không ổn định, hoặc bất thường.Nhóm thu nhập này sau khi xác định được từng loại thu nhập tính thuế thì áp dụng theo Biểu thuế toàn phần.

Nguyên nhân phân biệt việc đánh thuế thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương, tiền công với các khoản thu nhập khác chịu thuế

      Việc phân biệt việc đánh thuế thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương, tiền công với các khoản thu nhập khác chịu thuế là cơ sở đảm bảo cho việc tính thuế phù hợp với tình hình quốc gia cũng như với thông lệ quốc tế. Hiện nay luật thuế thu nhập cá nhân quy định việc áp dụng thuế suất theo hai hướng: đối với thu nhập từ  kinh doanh, tiền lương tiền công thì việc áp dụng biểu thuế suất lũy tiến từng phần; đối với các khoản thu nhập còn lại thì áp dụng biểu thuế suất luỹ tiến toàn phần. Mở rộng diện điều tiết một cách hợp lí trên cơ sở bổ sung một số khoản thu nhập chịu thuế. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về lập pháp và thực tiễn; về lập pháp những quy định trên góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế nói chung và thuế thu nhập cá nhân nói riêng; về mặt thực tiễn các quy định càng rõ ràng, chi tiết toàn diện vừa đảm bảo khả năng thực hiện của cơ quan thuế, người nộp thuế, đồng thời hạn chế tối đa tình trạng gian lận, lẩn tránh trách nhiệm về thuế đối với nhà nước.

     Nhìn chung quy định về thu nhập chịu thuế theo quy định của PL TTNCN hiện hành theo xu hướng phân loại theo thu nhập đã tạo nền tảng cho việc tính thuế phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc phân loại thu nhập chịu thuế cũng tạo cơ sở cho việc áp dụng thuế suất, đó là áp dụng biểu thuế lũy tiến từng phần sau khi đã trừ đã tính toán các khoản được trừ, áp dụng kì tính thuế theo năm, đối với thu nhập từ kinh doanh, thu nhập từ tiền lương tiền công và áp dụng biểu thuế toàn phần và không áp dụng các khoản giảm trừ, áp dụng kì tính thuế theo từng đợt phát sinh với các khoản thu nhập còn lại. Thuế TNDN từ kinh doanh được áp dụng biểu thuế lũy tiến từng phần, được giảm trừ gia cảnh các khoản đóng góp từ thiện là rất hợp lí, bởi kinh nghiệm của các nước khi xây dựng chính sách động viên về thuế đã cảnh báo thuế suất cao là giấy mời cho sự trốn thuế và gian lận thuế. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa việc đánh thuế từ kinh doanh, tiền lương tiền công với các khoản thu nhập khác.

      Sở dĩ có sự khác biệt trong quy định này vì:

      Thu nhập từ kinh doanh, tiền lương ,tiền công là nhập có tính thường xuyên, ổn định có chức năng đảm bảo cuộc sống của người nộp thuế vì vậy mức thu nhập chịu thuế được tính theo năm và thực hiện khấu trừ tại nguồn, tạm thu hàng tháng. Luật thuế thu nhập cá nhân quy định cụ thể ,rõ ràng đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công có ý nghĩa quan trọng bởi đây là thu nhập mang tính thường xuyên của người nộp thuế và chiếm tỉ trọng lớn trong nguồn thu của thuế TNCN. Ngoài ra, các thu nhập mang tính tiền lương tiền công tồn tại dưới nhiều hình thức phong phú và đa dạng nên quy định chi tiết để xác định đúng loại thu nhập chịu thuế ,từ đó áp dụng căn cứ tính thuế phù hợp.

      Thuế suất luỹ tiến từng phần là biểu thuế gồm nhiều bậc, ứng với mỗi bậc là một mức thuế suất tương ứng, theo đó, thuế suất tăng dần theo từng bậc thuế. Thuế được tính từng phần theo bậc thuế và mức thuế suất tương ứng của từng bậc, số thuế phải nộp là tổng số thuế tính cho từng bậc. Biểu thuế luỹ tiến từng phần áp dụng đối với thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương, tiền công trực tiếp theo quy định tại Luật thuế thu nhập cá nhân.

      Thu nhập từ kinh doanh, tiền lương tiền công được áp dụng thuế suất luỹ tiến từng phần, như vậy thuế sẽ được đánh tăng dần theo mức tăng của thu nhập, tài sản, sát với khả năng đóng góp của đối tượng nộp thuế nên đáp ứng được mục tiêu công bằng xã hội theo chiều dọc, vì vậy, thường được sử dụng trong các sắc thuế thu nhập. Thuế suất lũy tiến từng phần được coi là ưu điểm hơn ở tính công bằng và nộp thuế có tính đến khả năng đóng góp của cá nhân có thu nhập chịu thuế. Tức là thu nhập thấp phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của đời sống cá nhân và gia đình thì họ chịu thuế suất thấp hơn, phần thu nhập cao thì chịu thế suất cao hơn. Cách đánh thuế này dễ được người nộp thuế chấp nhận vì phần thu nhập phục vụ cho nhu cầu thiết yếu họ chỉ trích một tỉ lệ nhỏ để giao cho nhà nước, còn phân thu nhập có tích lũy nhiều hơn thì phải trích một tỉ lệ nhiều hơn để thực hiện nghĩa vụ của mình

      Tuy nhiên, loại thuế suất này có nhược điểm là kỹ thuật tính toán thuế phức tạp. Khó có thể áp dụng được với các loại thu nhập có tính chất không thường xuyên. Như vậy, có thể thấy, biểu thuế lũy tiến từng phần áp dụng với các thu nhập có tính chất thường xuyên, không áp dụng các thu nhập có tính chất thường xuyên, có tính chất đều đặn, phát sinh từng lần, từng đợt riêng lẻ. Việc thu thuế với các loại thu nhập này cần phải áp dụng theo biểu thuế lũy tiến toàn phần. Bởi nếu áp dụng biểu thuế lũy tiến từng phần thì việc tính thuế sẽ rất khó bởi tính không thường xuyên và đều đặn của loại thu nhập này. Như vậy, việc áp dụng biểu thuế từng phần hay toàn phần sẽ phụ thuộc vào tính chất của loại thu nhập đó.

      Trong khi những khoản còn lại là những thu nhập không thường xuyên mang tính đột xuất. Quy định giảm trừ gia cảnh chỉ áp dụng với những khoản thu nhập mang tính thường xuyên và thực chất là khấu trừ phần thu nhập để chi dùng cho đảm bảo cuộc sống cho người nộp thuế và những người mà người nộp thuế có nghĩa vụ nuôi dưỡng. Còn những khoản thu khác không được áp dụng các khoản được trừ bởi tính chất các khoản thu nhập khác là không thường xuyên.

      Áp dụng giảm trừ gia cảnh, tức là có tính đến hoàn cảnh cá nhân của đối tượng nộp thuế. Đây là quy định hoàn toàn mới so với pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Điều này làm cho việc xác định nghĩa vụ thuế của mỗi đối tượng nộp thuế được công bằng hơn. Trong pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao không có quy định nào về giảm trừ gia cảnh khi xác định nghĩa vụ thuế. Mà chỉ có quy định rất chung chung về giảm thuế, miễn thuế quy định tại điều 29 của pháp lệnh. Và chỉ được phép giảm thuế, miễn thuế trong những trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định. Điều này gây ra một thực tế đó là: Người nộp thuế có thể có thu nhập cao, thuộc đối tượng chịu thuế, nhưng trên thực tế thu nhập này phải chi cho rất nhiều khoản ví dụ như: viện phí cho người thân, học phí cho con,…Nên dự có thu nhập cao nhưng họ vẫn rơi vào hoàn cảnh khó khăn về kinh tế. Mà nếu không nộp đầy đủ thuế thì lại trở thành vi phạm pháp luật. Vì vậy quy định về giảm trừ gia cảnh của Luật thuế thu nhập cá nhân đã thể hiện được tính xã hội một cách sâu sắc. Xem xét hoàn cảnh của người nộp thuế rồi quyết định mức thuế phải nộp là rất cần thiết. Việc giảm trừ cho người phụ thuộc được thực hiện theo nguyên tắc mỗi người phụ thuộc được tính giảm trừ một lần vào một đối tượng nộp thuế. Luật cũng không khống chế mức giảm trừ tối đa cho người phụ thuộc. Việc mở rộng diện giảm trừ cho những người phụ thuộc đảm bảo thực hiện công bằng trong điều tiết thu nhập và phù hợp với đạo lý xã hội của người Việt Nam, nhận được sự đồng tình ủng hộ của đông đảo nhân dân.

Tìm hiểu những thủ đoạn chủ yếu để một cá nhân gian lận thuế thu nhập cá nhân hiện nay và cho ví dụ thực tiễn để minh họa

“Thủ đoạn” chủ yếu để một cá nhân gian lận thuế TNCN hiện nay và ví dụ thực tiễn minh họa

      Hành vi gian lận thuế là hành vi của cá nhân, tổ chức cố ý làm sai lệch làm giảm số thuế phải nộp hoặc làm tăng số thuế được hoàn hoặc miễn, giảm .Gian lận thuế là hành vi vi phạm pháp luật luôn tồn tại song hành với hoạt động thuế của Nhà nước. Có thể nói, Nhà nước còn đánh thuế thì sẽ còn tồn tại hành vi gian lận thuế do động cơ của gian lận thuế luôn tồn tại khi Nhà nước thu thuế, đó là mong muốn giảm nghĩa vụ thuế của người nộp thuế. “Thủ đoạn” chủ yếu để một cá nhân gian lận thuế TNCN hiện nay:

Trả lương trên giấy

      Khoảng cách giữa lương thực lãnh và lương trên giấy là thực tế khá phổ biến hiện nay, nhằm tránh chi phí bảo hiểm cũng như thuế thu nhập.

      Ví dụ :Bà B vừa được văn phòng đại diện của một công ty thuê với giá là 500 USD (lương thực lĩnh). Nhưng trên hợp đồng kí kết của hai bên, lương của bà B chỉ là 300 USD (lương trên giấy). Vì vậy, đáng lẽ đúng thì bà B phải nộp thuế thu nhập cá nhân trên số tiền lương là 500 USD, nhưng dựa trên giấy tờ thì bà chỉ phải nộp thuế TNCN trên số tiền là 300 USD. Cách trả như thế này là “lách luật”, nhằm mục đích giảm và tránh chi phí bảo hiểm xã hội cũng như thuế TNCN. Với mức lương 500 USD được thể hiện trong hợp đồng lao động thì bà B phải nộp thuế thu nhập cá nhân. Trước mắt thì họ sẽ  tránh được một khoản thuế. Tuy nhiên có tranh chấp lao động hoặc pháp lý thì mọi chuyện sẽ rối tung cho cả doanh nghiệp và bà B.

Hoạt động chuyển nhượng bất động sản

      Thứ nhất, tự khai báo là tài sản duy nhất.

      Điều 4 Luật Thuế Thu nhập cá nhân (TNCN) quy định: Thu nhập từ chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn liền với đất ở của cá nhân trong trường hợp cá nhân chỉ có một nhà ở, đất ở duy nhất thì được miễn thuế; đồng thời, người chuyển nhượng bất động sản (BĐS) tự khai và chịu trách nhiệm về tính trung thực về kê khai của mình. Tuy nhiên, đây chính là kẽ hở để không ít người có nhiều nhà ở, đất ở khi chuyển nhượng sẵn sàng kê khai là tài sản duy nhất để không phải nộp thuế.

      Thực tế này đang diễn ra khá phổ biến, gây thất thu lớn cho ngân sách, vì trong bối cảnh hệ thống thông tin quản lý cá nhân của cơ quan quản lý nhà nước chưa thể kết nối mạng thông tin thống nhất trên phạm vi toàn quốc, do đó không thể quản lý được việc sở hữu BĐS chi tiết đến từng cá nhân trên nhiều địa bàn khác nhau.

      Thậm chí, người sở hữu nhà ở, đất ở trong cùng một địa bàn nhưng khi kê khai thì người sở hữu nhà hoàn toàn có thể khai theo địa chỉ ghi trên giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất gửi ở cơ quan thuế. Trong khi đó, cơ sở dữ liệu tại các quận huyện, địa phương lại quản lý theo địa chỉ cấp đổi mới, do vậy, lại một lần nữa, cơ quan thuế cần đến văn bản tự cam kết của người kê khai chứ chưa có thông tin chuẩn xác để đối chiếu.

      Thứ hai, chuyển nhượng/cho tặng qua trung gian.

      Khoản 1 Điều 4 Luật Thuế TNCN quy định: “Thu nhập từ chuyển nhượng BĐS giữa vợ với chồng, cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh chị em ruột với nhau” thì được miễn thuế TNCN. Lợi dụng quy định này, nhiều trường hợp đã sử dụng mối quan hệ bắc cầu để trốn thuế.

      Ví dụ: với trường hợp hai anh em rể chuyển nhượng BĐS cho nhau, theo quy định tại Khoản 1, Điều 4, Luật nêu trên thì đây là đối tượng phải nộp thuế. Tuy nhiên, để lách luật, người rể thứ nhất làm thủ tục chuyển nhượng cho bố vợ, sau đó bố vợ lại chuyển nhượng tiếp cho người rể thứ hai. Cả hai lần chuyển nhượng này đều thuộc đối tượng được miễn thuế.Bằng cách này, người bán nhà đã tránh phải nộp thuế.

      Hay như tại Khoản 4 Điều 4 Luật Thuế TNCN 2007 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) quy định thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng là BĐS giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau là thu nhập miễn thuế.

      Ví dụ: nếu căn nhà đứng tên vợ chồng anh trai, nay anh ruột và chị dâu tặng nhà cho em trai thì người em trai vẫn phải nộp thuế TNCN khoản “quà tặng” do giao dịch cho tặng giữa chị dâu với em chồng không được miễn thuế. Trường hợp này, người vợ có thể làm thủ tục tặng phần sở hữu của mình cho chồng, sau đó người anh trai làm thủ tục tặng nhà cho em trai.Hoặc vợ chồng người anh làm thủ tục tặng nhà cho bố mẹ, sau đó bố mẹ làm thủ tục tặng nhà đó lại cho người em trai để trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế.

      Thứ ba, lợi dụng sự thông thoáng của hệ thống văn bản pháp luật.

      Một ví dụ điển hình trong việc lợi dụng quy định của hệ thống văn bản pháp luật là vụ việc tránh thuế TNCN khi bán nhà cho Công ty cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk). Chủ sở hữu căn nhà số 190 Nguyễn Đình Chiểu, Phường 6, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh đã làm giấy tặng nhà cho con gái. Tại Khoản 1, 4 Điều 4 Luật Thuế TNCN 2007 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) quy định thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng là BĐS giữa cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ là thu nhập miễn thuế, do vậy, con gái khi được tặng nhà không phải nộp thuế TNCN.

      Do con gái chưa đủ tuổi thành niên cha mẹ đại diện con gái ký hợp đồng chuyển nhượng căn nhà cho Vinamilk với giá hơn 37,8 tỷ đồng, cô con gái viết giấy cam kết đây là căn nhà sở hữu duy nhất nên được miễn thuế TNCN. Mặc dù, cơ quan thuế nghi ngờ đây là hành vi lách thuế nhưng đối chiếu theo quy định của Luật thuế TNCN và Luật Dân sự thì người bán nhà kể trên đã không vi phạm. Người có thu nhập từ bán nhà đã được lợi 756 triệu đồng (Thuế TNCN phải nộp là 2% trên giá chuyển nhượng, theo Điều 17 Thông tư 92/2015/TT-BTC sửa đổi, bổ sung điều 12 Thông tư 111/2013/TT-BTC)  – số tiền mà lẽ ra người bán phải nộp thuế TNCN.

      Thứ tư, thỏa thuận thấp giá chuyển nhượng.

      Điều 17 Thông tư 92/2015/TT-BTC chỉ rõ: Giá chuyển nhượng đối với chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có công trình xây dựng trên đất là giá ghi trên hợp đồng chuyển nhượng tại thời điểm chuyển nhượng. Giá chuyển nhượng đối với chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn với công trình xây dựng trên đất, kể cả công trình xây dựng hình thành trong tương lai là giá ghi trên hợp đồng chuyển nhượng tại thời điểm chuyển nhượng.

      Trường hợp trên hợp đồng chuyển nhượng không ghi giá đất hoặc giá đất trên hợp đồng chuyển nhượng thấp hơn giá do UBND cấp tỉnh quy định thì giá chuyển nhượng đất là giá do UBND cấp tỉnh quy định tại thời điểm chuyển nhượng theo quy định của pháp luật về đất đai. Trường hợp chuyển nhượng nhà gắn liền với đất thì phần giá trị nhà, kết cấu hạ tầng và công trình kiến trúc gắn liền với đất được xác định căn cứ theo giá tính lệ phí trước bạ nhà do UBND cấp tỉnh quy định. Trường hợp UBND cấp tỉnh không có quy định giá tính lệ phí trước bạ nhà thì căn cứ vào quy định của Bộ Xây dựng về phân loại nhà, về tiêu chuẩn, định mức xây dựng cơ bản, về giá trị còn lại thực tế của công trình trên đất.

      Như vậy, hệ thống văn bản pháp luật thuế TNCN quy định giá chuyển nhượng là giá thực tế ghi trên hợp đồng, tại thời điểm chuyển nhượng nhưng không thấp hơn giá đất do UBND tỉnh, thành phố quy định. Thực tế trên thị trường BĐS, giá đất mua bán thường cao hơn giá đất do UBND tỉnh, thành phố quy định nhưng do căn cứ xác định thuế TNCN của người bán và thuế trước bạ của người mua là giá chuyển nhượng, vì lợi ích của cả người mua và người bán, nên họ thường thoả thuận ghi giá trên hợp đồng chuyển nhượng thấp hơn thực tế. Trong trường hợp này chỉ Nhà nước chịu thất thu thuế.

      Thứ năm, hủy bỏ hợp đồng hình thành tài sản trong tương lai với chủ đầu tư.

      Cũng trong Điều 17 Thông tư 92/2015/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Điều 12 Thông tư số 111/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính về căn cứ tính thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng BĐS đối với công trình xây dựng hình thành trong tương lai: Trường hợp hợp đồng không ghi giá chuyển nhượng hoặc giá chuyển nhượng thấp hơn tỷ lệ góp vốn trên phần tổng giá trị hợp đồng nhân (x) với giá đất và giá tính lệ phí trước bạ công trình xây dựng do UBND cấp tỉnh quy định thì giá chuyển nhượng được xác định theo giá UBND (x) với tỷ lệ góp vốn trên tổng giá trị hợp đồng.

      Trường hợp UBND cấp tỉnh chưa có quy định về đơn giá thì áp dụng theo suất vốn đầu tư xây dựng công trình do Bộ Xây dựng công bố, đang áp dụng tại thời điểm chuyển nhượng.

      Quy định thì có nhưng để thu được khoản thuế này chưa hẳn dễ dàng. Nhà đầu tư ký hợp đồng mua nhà ở hình thành trong tương lai (hoặc ký hợp đồng góp vốn để nhận về phần đất tương ứng) với chủ đầu tư. Khi nhà đầu tư A thực hiện giao dịch mua bán với nhà đầu tư B, họ không đưa nhau ra phòng công chứng để chuyển nhượng lại hợp đồng đã ký với chủ đầu tư, mà nhà đầu tư A sẽ lập biên bản hủy bỏ hợp đồng với chủ đầu tư.

      Chủ đầu tư sử dụng lại hợp đồng cũ nhưng chỉ thay đổi tên người mua mới là nhà đầu tư B. Bằng cách này, nhà đầu tư A đã không phải nộp thuế TNCN khi chuyển nhượng hợp đồng.

      Thứ sáu, giao dịch mua bán bằng giấy viết tay.

      Ở nhiều địa phương, do nhận thức của người dân còn thấp nên nhiều hợp đồng mua, bán nhà đất hiện vẫn tồn tại theo hình thức viết tay giữa các cá nhân. Điều này chưa đủ căn cứ pháp lý để cơ quan thuế tính thuế bởi theo quy định, việc xác định căn cứ tính thuế thu nhập từ chuyển nhượng BĐS chỉ xảy ra khi hoạt động chuyển nhượng đã được cơ quan nhà nước chứng thực.

      Việc không tiến hành lập hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà/quyền sử dụng đất và thực hiện giao dịch theo thỏa thuận bằng giấy viết tay không chỉ khiến nhà nước bị thất thu thuế trong các giao dịch này, mà còn khiến các cơ quan chức năng ở địa phương, nơi cá nhân mua bán BĐS cư trú khó xác định người chuyển nhượng hiện có bao nhiêu BĐS và đâu là BĐS duy nhất.

Thủ đoạn của nghệ sĩ

      Với tài năng và sự hâm mộ của khán giả, nhiều nhân vật nổi tiếng có thu nhập hằng năm rất cao. Theo một số chuyên gia tài chính, mặc dù có mức thu nhập khiến nhiều người mơ ước song không ít nhân vật nổi tiếng đã làm nhiều cách để né tránh nghĩa vụ nộp thuế thu nhập cá nhân.

      Một trong những chiêu thức phổ biến là giảm giá trị hợp đồng được ký kết khi biểu diễn để gian lận số tiền thuế phải nộp. Hình thức né thuế phổ biến khác là tự thành lập công ty để giao dịch. Mức cát xê lúc này do các nghệ sĩ “tự biên, tự diễn” nên dễ dàng giảm hàng chục, thậm chí cả trăm triệu đồng xuống mức rất… khiêm tốn. Tiền thuế TNCN phải nộp cũng giảm đáng kể. Tuy nhiên, theo một số nghệ sĩ, một trong những nguyên nhân khiến họ tìm cách “né” thuế là theo quy định tại Luật Thuế TNCN hiện hành, giới nghệ sĩ không còn được khấu trừ 25% thu nhập dành cho chi phí mua trang phục biểu diễn như trước. Chính vì vậy, câu chuyện “cát xê một đằng, hợp đồng một nẻo” ngày càng phổ biến. Cũng có ý kiến cho rằng, không phải công ty đại diện nào, ca sĩ nào cũng mập mờ, gian lận thuế TNCN.

Gian lận từ kinh doanh

      Hiện nay nhiều đối tượng nộp thuế TNCN từ kinh doanh chưa tự giác kê khai nộp thuế theo đúng quy định của pháp luật.Nhiều trường hợp kê khai thấp hơn nhiều so với thu nhập thực tế. Thực tế này diễn ra phổ biến là đối với cá nhân hành nghề độc lập bởi người hành nghề độc lập tham gia vào quan hệ lao động, tự tổ chức lấy, quản lí lấy quá trình lao động của mình. Trong quá trình đó, họ được quyền lựa chọn thực hiện công việc , tự quản lí, tổ chức thời gian, lựa chọn khách hàng, tự quản lí tự kê khai tự nộp thuế. Chính điều này gây khó khăn cho cơ quan thuế trong việc kiểm soát thu nhập của các cá nhân có thu nhập từ kinh doanh dẫn đến tình trạng gian lận thuế TNCN.

Phân tích những đặc trưng của thuế thu nhập cá nhân?
Phân tích những đặc trưng của thuế thu nhập cá nhân?

 Giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam

      Để luật thuế thu nhập cá nhân sớm nhận được sự ủng hộ của toàn xã hội, có tính pháp lý bền vững và ổn định, là căn cứ quan trọng trong việc xác định nghĩa vụ nộp thuế của mọi người dân trong xã hội, là căn cứ để xử phạt nghiêm minh các hiện tượng trốn thuế, gian lận trong kê khai và nộp thuế và đặc biệt tạo ra sự công bằng cho các đối tượng nộp thuế, tránh thất thu thuế thì Luật thuế thu nhập cá nhân phải thực hiện các giải pháp hoàn thiện sau:

      Cần xác định ngưỡng khởi điểm tính thuế thu nhập cá nhân và mức chiết trừ gia cảnh cho các đối tượng phụ thuộc phù hợp với điều kiện thực tế của nền kinh tế có lạm phát cao, phù hợp với thu nhập bình quân của mọi thành viên trong xã hội, huy động tối đa số lượng các đối tượng chịu thuế, góp phần làm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, đảm bảo sự công bằng xã hội. Với ý nghĩa đó, thuế thu nhập cá nhân được hiểu là khoản thuế mà mọi cá nhân có thu nhập đều phải có trách nhiệm, nghĩa vụ đóng góp.

      Luật nên thay đổi mức thuế suất theo biểu thuế lũy tiến sao cho khoảng cách giữa các mức không quá chênh lệch, có như vậy mới khuyến khích được những người lao động có tài năng, đồng thời cũng giảm được hiện tượng khai man thu nhập, hiện tượng gian lận thuế.

      Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát các khoản thu nhập không được phản ánh trên các sổ sách kế toán của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế. Có chế tài xử phạt đủ sức răn đe đối với các đối tượng cố tình khai man thu nhập hoặc giấu thu nhập để giảm bớt khoản thuế thu nhập cá nhân phải nộp cho nhà nước. Mặt khác phải quản lý chặt chẽ thu nhập từ tiền lương, tiền công, thực hiện kê khai và nộp thuế thông qua cơ quan chi trả thu nhận. Cơ quan chi trả thu nhập phải có trách nhiệm thu và chuyển số thuế thu được vào kho bạc nhà nước. Để cho việc kê khai thuế, quyết toán thuế, hoàn thuế thu nhập cá nhân một cách thuận lợi, dễ làm, dễ hiểu, dễ kiểm soát thì các điều luật và thông tư dưới luật phải được thể chế hết sức đơn giản, rõ ràng, nhất quán, giúp cho các tổ chức, các cá nhân hiểu rõ được luật thuế thu nhập cá nhân, từ đó họ nâng cao ý thức, trách nhiệm của họ đối với xã hội.

      Để luật thuế thu nhập cá nhân có tính pháp lý bền vững và ổn định lâu dài, không bị lạc hậu thì Luật không nên quy định ngưỡng khởi điểm tính thuế  thu nhập cá nhân bằng một mức tiền tuyệt đối, làm như vậy phải thường xuyên điều chỉnh ngưỡng khởi điểm tính thuế khi tốc độ lạm phát của nền kinh tế tăng cao.

      Phải tăng cường công tác tuyên truyền Luật thuế thu nhập cá nhân trên các phương tiện truyền thông để mọi người trong xã hội hiểu rõ được ý nghĩa, vai trò của hệ thống thuế nói chung, thuế thu nhập cá nhân nói riêng đối với sự phát triển của xã hội, từ đó giúp cho họ có nhận thức đúng đắn và coi nộp thuế là trách nhiệm, là nghĩa vụ của người dân yêu nước.

      Tiếp tục cái cách hệ thống thuế thu nhập cá nhân để thuế thu nhập cá nhân trở thành một công cụ sắc bén của nhà nước, điều tiết nền kinh tế- xã hội. Thực tế những năm qua từ khi pháp luật thuế TNCN ra đời trong điều kiện phát  triển nền kinh tế thị trường  thì nó đã đóng góp những vai trò tích cực. Tuy nhiên trong mỗi thời kỳ khác nhau của nên kinh tế cần có những quy định phù hợp , pháp luật thuế TNCN cũng không nằm ngoài yêu cầu đó. Việc ban hành một văn bản pháp luật hoàn chỉnh về thuế TNCN và việc triển khai có hiệu quả trên thực tế cần có sự phối hợp của nhiều cấp nhiều ngành. Nhà nước phải làm sao kết hợp lợi ích của mình và lợi ích của cá nhân một cách hài hòa nhất mới có thể đảm bảo có một chính sách thuế hợp lí sẵn sàng cho yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.


      Trên đây là toàn bộ thông tin mà chúng tôi cung cấp đến bạn về vấn đề: Tìm hiểu những thủ đoạn chủ yếu để một cá nhân gian lận thuế thu nhập cá nhân hiện nay và cho ví dụ thực tiễn để minh họa. Để được tư vấn cụ thể hơn bạn vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn luật trực tuyến qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy.

      Trân trọng./.


 

phone-call

GỌI HỎI ĐÁP MIỄN PHÍ

Scroll to Top