Đánh giá chế định ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

      Quan hệ hôn nhân được phát sinh khi người nam và người nữa kết hôn, việc kết hôn này phải tuân thủ các quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và phải đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền. Việc kết hôn giữa nam và nữ nhằm hướng tới xây dựng gia đình,sống chung với nhau và hướng tới một cuộc sông ấm no, hành phúc. Nhưng không quan hệ kết hôn nào cũng đạt được mục đích như vậy nên đời hỏi cần có một chế định nhằm chấm dứt quan hệ hôn nhân không đạt được mục đích mà việc kết hôn hướng tới. Ly hôn là một biện pháp chấm dứt tình trạng mâu thuẫn gay gắt giữa vợ và chồng, vợ chồng chia tay bằng một phán quyết của Toà án, và nó không chỉ gây hậu quả đối với các thành viên trong gia đình mà còn gây ra nhiều hậu quả khác cho xã hội. Do vậy, ly hôn không chỉ là vấn đề riêng của mỗi gia đình mà là vấn đề của cả xã hội quan tâm. Để tìm hiểu các quy định của pháp luật về vấn đề ly hôn em xin chọn đề tài: “Đánh giá chế định ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014” làm đề tài của bài tập học kỳ.


Danh mục tài liệu tham khảo:

  • Luật Hôn nhân và gia đình 2014
  • Luật Hôn nhân và gia đình 2000
  • Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật HNGĐ Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2007.
  • Viện Đại học mở, Giáo trình luật HNGĐ Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2015.
  • Ngô Thị H¬ường, Chế định cấp dư¬ỡng trong Luật HNGĐ – Vấn đề lí luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ luật học, Trư¬ờng Đại học Luật Hà Nội, năm 2006.
  • Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HNGĐ Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trư¬ờng Đại học Luật Hà Nội, năm 2005

Khái quát về ly hôn

      Quan hệ hôn nhân với đặc điểm tồn tại lâu dài, bền vững cho đến suốt cuộc đời con người vì nó được xác lập trên cơ sở tình yêu thương, gắn bó giữa vợ chồng. Tuy nhiên, trong cuộc sống vợ chồng, vì những lý do nào đó dẫn tới giữa vợ chồng có mâu thuẫn sâu sắc đến mức họ không thể chung sống với nhau nữa, vấn đề ly hôn được đặt ra để giải phóng cho vợ chồng và các thành viên khác thoát khỏi mâu thuẫn gia đình. Ly hôn là mặt trái của hôn nhân nhưng là mặt không thể thiếu được khi quan hệ hôn nhân tồn tại chỉ là hình thức, tình cảm vợ chồng đã thực sự tan vỡ.

      Vấn đề ly hôn được quy định trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia là khác nhau. Một số nước cấm vợ chồng ly hôn, bởi vì theo họ quan hệ vợ chồng bị ràng buộc thiêng liêng theo ý Chúa. Một số nước thì hạn chế ly hôn bằng cách đưa ra những điều kiện hết sức nghiêm ngặt. Cấm ly hôn hay hạn chế ly hôn đều trái với quyền tự do dân chủ của cá nhân.

      Pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa công nhận quyền tự do ly hôn chính đáng của vợ chồng, không cấm hoặc đặt ra những những điều kiện nhằm hạn chế quyền tự do ly hôn. Ly hôn dựa trên sự tự nguyện của vợ chồng, nó là kết quả của hành vi có ý chí của vợ chồng khi thực hiện quyền ly hôn của mình. Nhà nước bằng pháp luật không thể cưỡng ép nam, nữ phải yêu nhau và kết hôn với nhau, thì cũng không thể bắt buộc vợ chồng phải chung sống với nhau, phải duy trì quan hệ hôn nhân khi tình cảm yêu thương gắn bó giữa họ đã hết và mục đích của hôn nhân đã không thể đạt được. Việc giải quyết ly hôn là tất yếu đối với quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ. Điều đó là hoàn toàn có lợi cho vợ chồng, con cái và các thành viên trong gia đình. Theo Lê-nin: “thực ra tự do ly hôn tuyệt không có nghĩa là làm “tan rã” những mối liên hệ gia đình mà ngược lại, nó củng cố những mối liên hệ đó trên những cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc trong một xã hội văn minh”. Nhưng bên cạnh đó, ly hôn cũng có mặt hạn chế đó là sự ly tán gia đình, vợ chồng, con cái. Vì vậy, khi giải quyết ly hôn, Toà án phải tìm hiểu kỹ nguyên nhân và bản chất của quan hệ vợ chồng và thực trạng hôn nhân với nhiều yếu tố khác để đảm bảo quyền lợi cho các thành viên trong gia đình, lợi ích của nhà nước và của xã hội.

      Như vậy, ly hôn chính là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.


Đánh giá chế định ly hôn theo luật hôn nhân và gia đình năm 2014

Người có quyền yêu cầu giải quyết ly hôn

      Theo quy định tại điều 51 luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì những người có quyền yêu cầu giải quyết ly hôn gồm:

1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.

Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

      Theo quy định trên thì người có quyền yêu cầu giải quyết ly hôn gồm vợ, chồng hoặc cả hai. Việc ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng, sau thời điểm Quyết định, bản án của Tòa án có hiệu lực, hai bên nam, nữ không còn là vợ chồng của nhau nữa. Cũng như việc tự quyết định đi đến hôn nhân thì hai bên là người đầu tiên được quyền yêu cầu ly hôn khi có những lý do mà không thể giải quyết được. Thuận theo thực tế, pháp luật cũng thừa nhận đối tượng được yêu cầu ly hôn trước hết chính là có ý muốn xác lập quan hệ vợ chồng đó. Họ đã xác lập, nhưng giờ họ lại muốn chấm dứt quan hệ này. Do đó, vợ hoặc chồng sẽ nộp đơn xin ly hôn tại Tòa án để yêu cầu ly hôn.

      Ngoài vợ và chồng là người có quyền yêu cầu giải quyết ly hôn thì luật Hôn nhân và gia đình 2014 còn quy định thêm một chủ thể nữa có quyền yêu cầu giải quyết ly hôn đó là Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình. Với quy định mới như vậy luật Hôn nhân và gia đình 2014 đã bảo vệ lợi ích tối đa của ngời vợ, người chồng trong trường hợp người này bị mất năng lực hành vi dân sự. Theo đó, cha mẹ hoặc người thân thích khác của họ có quyền nộp đơn yêu cầu ly hôn cho họ. Quy định này hoàn toàn hợp lý bởi vì trong thực tế xét xử đã xảy ra nhiều trường hợp, một bên bị tâm thần, bên kia nộp đơn xin ly hôn, khi đó người nộp đơn vừa là nguyên đơn vừa là người đại diện theo pháp luật của bị đơn. Điều này không đảm bảo công bằng, có khả năng gây thiệt thòi cho người đang bị tâm thần, vốn có quyền lợi đối lập với người kia trong vụ ly hôn.

      Ngoài việc quy định về người có quyền yêu cầu giải quyết ly hôn thì điều 51 còn quy định trường hợp hạn chế quyền yêu cầu giải quyết ly hôn đối với người chồng trong trường hợp ngời vợ đang mang thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Việc hạn chế quyền yêu cầu giải quyết ly hôn này chia áp dụng cho người chồng mà không áp dụng cho người vợ bởi lẽ quy định này nhằm bảo vệ bà mẹ, đặc biệt là bảo vệ thai nhi và trẻ nhỏ, tránh những tác động tiêu cực đến bà mẹ, gây ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển bình thường của thai nhi và trẻ nhỏ. Đây là một quy định mang tính nhân văn của pháp luật. Mặt khác, nếu trong trường hợp đang mang thai, sinh con hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi mà người vợ cảm thấy việc duy trì quan hệ kết hôn hiện tại gây tác động xấu đến mình, ảnh hưởng tiêu cực đến thai nhi hoặc đứa trẻ dưới 12 tháng tuổi thì người mẹ vẫn có quyền yêu cầu ly hôn hoặc thuận tình ly hôn theo yêu cầu của người chồng.

Đánh giá chế định ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

      Nhưng có ý kiến cho rằng chỉ khi đứa con mà người vợ đang mang thai, sinh con hoặc nuôi dưới 12 tháng tuổi là con của người chồng hiện tại đó thì người chồng mới không có quyền yêu cầu ly hôn còn nếu đứa con của người vợ là con của một người đàn ông khác người chồng hiện tại thì người chồng vẫn có quyền ly hôn. Tuy nhiên theo quy định của pháp luật thì dù đứa trẻ đó là con của ai thì người chồng vẫn không có quyền yêu cầu ly hôn khi người vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Quy định này nhằm bảo vệ bà mẹ, đặc biệt là bảo vệ thai nhi và trẻ nhỏ, tránh những tác động tiêu cực đến bà mẹ, gây ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển bình thường của thai nhi và trẻ nhỏ. Quy định này là hoàn toàn hợp lý vì việc bảo về người phụ nữ có thai, thai nhi, trẻ em là vô cùng quan trọng. Việc người chồng yêu cầu giải quyết ly hôn mà tòa án giải quyết sẽ ảnh hưởng rất lớn đến người phụ nữ có thai đến thai nhi và đến trẻ em. Vì vậy không cần biết người vợ mang thai có phải con của người chồng hay không hay đứa trẻ dưới 12 tháng tuổi kia có phải con của người chồng hay không pháp luật vẫn hạn chết quyền yêu cầu giải quyết ly hôn đối với người chồng.

Căn cứ ly hôn

      Căn cứ ly hôn khi thuận tình ly hôn

      Thuận tình ly hôn là trường hợp cả vợ hoặc chồng cùng yêu cầu chấm dứt hôn nhân được thể hiện bằng đơn thuận tình ly hôn của vợ chồng. Theo Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn.

      Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì trong trường hợp hai vợ chồng có yêu cầu thuận tình ly hôn, sự tự nguyện của hai vợ chồng khi yêu cầu chấm dứt hôn nhân là một căn cứ quyết định việc chấm dứt hôn nhân. Bảo đảm “thật sự tự nguyện ly hôn” là cả hai vợ chồng đều được tự do bày tỏ ý chí của mình, không bị cưỡng ép, không bị lừa dối trong việc thuận tình ly hôn. Việc thể hiện ý chí thật sự tự nguyện ly hôn của hai vợ chồng đều phải xuất phát từ trách nhiệm đối với gia đình họ, phù hợp với yêu cầu của pháp luật và chuẩn mực, đạo đức xã hội.

      Cũng trong Điều 55, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, trong việc thuận tình ly hôn, ngoài ý chí thật sự tự nguyện xin thuận tình ly hôn của vợ chồng, đòi hỏi hai vợ chồng còn phải có sự thoả thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con, nếu vợ chồng không thoả thuận được hoặc tuy có thoả thuận nhưng không bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của vợ và con thì Toà án quyết định giải quyết việc ly hôn.

      Việc quy định vợ chồng thỏa thuận ly hôn như vậy đã giúp các cặp vợ chồng có thể chấm dứt hôn nhân trông êm đẹp, không ảnh hưởng tới con cái, việc thỏa thuận chia tài sản giúp bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của các bên và nhất là lợi ích của nười con. Giúp tiết kiệm thời gian, công sức của cặp vợ chồng yêu cầu giải quyết ly hôn, tiết kiệm nguồn lức cho các cơ quan nhà nước.

      Căn cứ ly hôn khi ly hôn theo yêu cầu của một bên

      Ly hôn theo yêu cầu của một bên là trường hợp chỉ có một trong hai vợ chồng, hoặc cha, mẹ, người thân thích của một trong hai bên yêu cầu được chấm dứt quan hệ hôn nhân. Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về ly hôn theo yêu cầu của một bên như sau:

1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.

Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.

      Theo đó, khi ly hôn theo yêu cầu của một bên thì Tòa án cần dựa vào một trong ba căn cứ sau đây:

      Thứ nhất, đối với trường hợp khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

      Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã bổ sung điểm mới khi cho ly hôn khi có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng. Như vậy, luật hiện hành quy định rất rõ “bạo lực gia đình” là căn cứ để giải quyết cho ly hôn. Bởi qua tổng kết thực tiễn giải quyết các án kiện ly hôn của Toà án cho thấy số vụ ly hôn có hành vi ngược đãi, đánh đập chiếm tỉ lệ cao nhất trong các nguyên nhân dẫn đến ly hôn ở nước ta trong đó thì đa phần phụ nữ là nạn nhân của tình trạng này.

      Có thể thấy rằng việc đưa ra những nguyên nhân của hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được để cụ thể hóa căn cứ cho ly hôn “vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng” trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã tạo cơ sở pháp lý rõ ràng cho Tòa án khi giải quyết việc ly hôn theo yêu cầu của một bên. Đây là một quy định rất tiến bộ mang ý nghĩa quan trọng nhằm cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 về quyền con người và bảo vệ quyền con người trong tiến trình hội nhập quốc tế. Điều này cũng tạo sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật khi giải quyết việc ly hôn trong cả nước.

      Thứ hai, đối với trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.

      Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, việc chồng hoặc vợ bị mất tích đã ảnh hưởng sâu sắc tới quan hệ vợ chồng và các thành viên trong gia đình. Cần phải giải phóng người vợ hoặc người chồng thoát khỏi “hoàn cảnh đặc biệt” này, khi họ có yêu cầu được ly hôn với người chồng đã bị tòa án tuyên bố mất tích.

      Quy định này của pháp luật là hoàn toàn hợp lý bởi lẽ: Một người khi bị tuyên mất tích thì người vợ hoặc người chồng còn lại có yêu cầu giải quyết ly hôn mà không được tòa án chấp nhận sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích của họ. Không ai có thể đảm bảo là người bị tuyên mất tích sẽ quay trở về nếu trì hoãn việc giải quyết yêu cầu ly hôn sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của người vợ hoặc người chồng còn lại.

      Thứ ba, đối với trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia. Theo phân tích ở trên thì ngoài vợ và chồng ra thì luật Hôn nhân và gia đình 2014 còn quy định một chủ thể nữa đó là cha,mẹ, người thân thích của vợ hoặc chồng.

      Như vậy, thay vì chỉ vợ, chồng hoặc cả hai người mới có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn như trước đây thì kể từ nay, căn cứ để cha, mẹ, người thân thích khác cũng có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.

      Quy định này đã tháo gỡ cho nhiều trường hợp mong muốn xin ly hôn thay cho người thân bị mất năng lực hành vi mà không được do trước đây chỉ quy định việc ly hôn phải do chính đương sự yêu cầu, trong khi họ lại bị mất năng lực hành vi dân sự dẫn đến không có năng lực hành vi tố tụng dân sự để xin ly hôn. Chính điều này đã dẫn tới thực trạng có rất nhiều trường hợp vợ hoặc chồng muốn ly hôn nhưng lại Tòa án không thể tiến hành giải quyết được, có nhiều vụ việc kéo dài trong rất nhiều năm với nguyên nhân duy nhất là do người vợ hoặc chồng bị mất năng lực hành vi dân sự.

Chia tài sản khi ly hôn

      Nếu vợ, chồng có thỏa thuận về chia tài sản thì tài sản sẽ được theo thỏa thuận của hai bên theo quy định tại khoản 1 điều 59 luật Hôn nhân và gia đình 2014: “Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận”, nếu hai bên không đầy đủ thì sẽ áp dụng các quy định của pháp luật. Với việc quy định như vậy, luật Hôn nhân và gia đình 2014 đã tôn trọng thỏa thuận của hai bên khi chia tài sản khi ly hôn. Các bên sẽ thỏa thuận theo ý chí của mình, bảo đảm thỏa mãn mong muốn của mình về tài sản, bảo đảm quyền và nghĩa vụ của mình khi ly hôn.

      Nếu vợ, chồng không thỏa thuận về chia tài sản khi ly hôn thì:

      Thứ nhất, tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;

b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.

      Luật Hôn nhân và gia đình 2014 2014 đã thêm căn cứ để chia tài sản là yếu tố lỗi. Có thể nói đây là sự bổ sung hết sức cần thiết và hợp lý. Bởi lẽ, việc một bên có lỗi dẫn đến việc mục đích hôn nhân không đạt được khiến việc ly hôn xảy ra không thể nhận phần tài sản bằng người kia. Quy định này góp phần bảo về quyền lợi của người không có lỗi, cũng góp phần hạn chế các trường hợp kết hôn vì tài sản của người kia và cố tình có lỗi để ly hôn.

       Thứ hai, tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.

      Thứ ba, tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung.

      Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.

      Thứ tư, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

      Thứ năm, giá trị tài sản chung của vợ chồng, tài sản riêng của vợ, chồng được xác định theo giá thị trường tại thời điểm giải quyết sơ thẩm vụ việc.

      Thứ sáu, khi chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, Tòa án phải xác định vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba hay không để đưa người thứ ba vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường hợp vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba mà họ có yêu cầu giải quyết thì Tòa án phải giải quyết khi chia tài sản chung của vợ chồng. Trường hợp vợ chồng có nghĩa vụ với người thứ ba mà người thứ ba không yêu cầu giải quyết thì Tòa án hướng dẫn họ để giải quyết bằng vụ án khác.

Quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng với nhau và với con khi ly hôn

      Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn

      Theo quy định tại điều 81của luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì:

      “1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

    Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con

    Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”

      Việc pháp luật quy định vợ chồng có quyền thỏa thuận ai là người nuôi dưỡng con có ý nghĩa vô cùng quan trọng, việc thỏa thuận này thể hiện ý chỉ của người thảo thuận, việc thỏa thuận như vậy sẽ chọn được người có điều kiện tốt nhất để chăm sóc, nuôi dưỡng đứa trẻ. Ngoài ra pháp luật quy định xem xét mong muốn của con từ 07 tuổi trở lên giúp cho đứa trẻ có thể được chăm sóc bởi người mà nó muốn. Có thể người này có đầy đủ điều kiện vật chất để nuôi dưỡng đứa trẻ nhưng lại không có thời gian để quan tâm, chăm sóc nó nên việc xem xét mong muốn của đứa trẻ là vô cùng quan trọng.

      Nghĩa vụ cấp dưỡng

      Nghĩa vụ cấp dưỡng này không chỉ là nghĩa vụ giữa cha, mẹ với con mà còn là giữa vợ chồng với nhau. Cụ thể theo quy định tại điều 115: “Khi ly hôn nếu bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình.”. Như vậy khi ly hôn nghĩa vụ giữa vợ và chồng không hoàn toàn chấm dứt, pháp luật quy định nếu một bên có khó khăn, túng thiếu và có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì bên kia phải cấp dưỡng theo khả năng của mình. Quy định này cua luật Hôn nhân và gia đình 2014 là một quy định của pháp luật thể hiện tính nhân văn sâu sắc, có ý nghĩa giáo dục và nâng cao giá trị đạo đức xã hội, thể hiện tinh thần tương thân tương ái, thể hiện tình nghĩa vợ chồng ngay cả khi đã chấm dứt hôn nhân.

      Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha, mẹ với con được quy định tại điều 110: “Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con”. Như vậy sau khi ly hôn thì nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha, mẹ đối với con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản riêng là nghĩa vụ bắt buộc đối với cha, mẹ. Việc quy định như vậy nhằm đảm bảo quyền lợi của người con và ràng buộc nghĩa vụ giữa cha mẹ với con.


Hạn chế và kiến nghị hoàn thiện luật

Một số hạn chế trong quy định của pháp luật

      Thứ nhất: về việc đánh giá tình trạng trầm trọng của hôn nhân trong trường hợp ly hôn theo yêu cầu của vợ hoặc chồng.

      Ta có thể thấy đây là một quy định mới, mang tính khái quát cao. Tuy nhiên, pháp luật quy đinh căn cứ ly hôn thể hiện yếu tố tình cảm vẫn còn chung chung. Khi giải quyết các trường hợp cụ thể, với sự đa dạng của cuộc sống, thì mỗi cặp vợ chồng, mỗi vụ án ly hôn thường có mâu thuẫn cũng như hoàn cảnh không giống nhau; trong khi đó, không có căn cứ rõ ràng để xác định thế nào là “làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được”, thế nào là hành vi “vi phạm nghiêm trọng” nên việc xem xét, đánh giá căn cứ trên là rất khó khăn, gặp nhiều vướng mắc.

      Thứ hai: đối với trường hợp vợ, chồng đã ly thân trên thực tế

      Luật Hôn nhân và gia đình 2014 không quy định ly thân là căn cứ cho ly hôn; mặc dù vậy, trong thực tiễn xét xử, các Tòa án thường đánh giá ly thân là căn cứ để giải quyết cho ly hôn.

      Thứ ba: trường hợp vợ hoặc chồng ly hôn với chồng hoặc vợ đang chấp hành án phạt tù

      Luật Hôn nhân và gia đình 2014 chưa quy định căn cứ ly hôn trong trường hợp vợ hoặc chồng đang chấp hành án phạt tù; vì vậy, trường hợp vợ hoặc chồng xin ly hôn với chồng hoặc vợ đang chấp hành án phạt tù hiện nay chưa có đủ cơ sở giải quyết cho ly hôn. Điều này đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người đề nghị giải quyết cho ly hôn.

Đánh giá chế định ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
Đánh giá chế định ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật

      Thứ nhất, cần lượng hóa nội dung về tiêu chí làm căn cứ ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Như đã trình bày ở trên, hiện nay pháp luật hiện hành quy định về căn cứ ly hôn thể hiện yếu tố tình cảm vẫn còn quá khái quát nên gây khó khăn trong việc hiểu và áp dụng pháp luật. Do đó, cần lượng hóa nội dung về tiêu chí làm căn cứ ly hôn; ví dụ như: ngoại tình là một trong những hành vi vi phạm nghĩa vụ chung thủy giữa vợ chồng, là hành vi trái với đạo đức xã hội. Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định: Cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ

      Thứ hai, pháp luật Việt Nam cần công nhận ly thân và xem ly thân là một trong những căn cứ để giải quyết ly hôn. Mặc dù pháp luật không quy định ly thân là căn cứ để giải quyết ly hôn nhưng trên thực tế, nhiều Tòa án đã đánh giá ly thân là một trong những căn cứ để giải quyết ly hôn và khiên cưỡng coi hành vi ly thân dẫn đến việc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Để khắc phục hạn chế này, pháp luật có thể bổ sung căn cứ ly hôn do ly thân theo hướng: “Trong trường hợp vợ chồng đã sống ly thân hơn 3 năm mà vẫn không thể quay về với nhau để chung sống hạnh phúc hoặc sống ly thân hơn 3 năm theo quyết định của Tòa án thì Tòa án giải quyết cho ly hôn mà không phải xem xét, đánh giá thực trạng quan hệ vợ chồng và các bên không phải chứng minh tình trạng trầm trọng của hôn nhân”.

      Thứ ba, cần bổ sung quy định căn cứ ly hôn khi chồng hoặc vợ phạm tội và đang chấp hành án phạt tù. Việc thiếu quy định về giải quyết ly hôn khi chồng hoặc vợ phạm tội và đang chấp hành án phạt tù là một hạn chế của pháp luật hiện hành. Cần bổ sung quy định căn cứ ly hôn trong trường hợp này làm sao để vừa có thể đảm bảo được quyền và lợi ích của vợ hoặc chồng có yêu cầu ly hôn và chồng hoặc vợ đang chấp hành án phạt tù, vừa đảm bảo tính nhân văn của pháp luật. Có thể sửa theo hướng như sau: “Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người đang chấp hành án phạt tù có yêu cầu ly hôn, nếu người kia đồng ý ly hôn thì Tòa án xem xét giải quyết cho ly hôn”.

      Thứ tư, cần cụ thể hóa quy định về hành vi bạo lực gia đình làm căn cứ cho ly hôn. Luật Hôn nhân và gia đình 2014  quy định về hành vi bạo lực gia đình làm căn cứ cho ly hôn, tuy nhiên quy định của luật vẫn dừng lại ở việc quy định chung chung.

      Đối với hành vi bạo lực vật chất: Vợ, chồng thường xuyên đánh đập, ngược đãi, hành hạ làm cho người bị ngược đãi, hành hạ luôn bị giày vò về mặt tình cảm, bị tổn thất về danh dự, đau khổ về tinh thần hoặc bị thương tích, tổn hại đến sức khỏe mà chưa đến mức xử lý về hình sự hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính.

      Đối với bạo lực tinh thần: Vợ, chồng bị chửi bới, sỉ nhục, xâm phạm danh dự, nhân phẩm và uy tín.

      Hành vi bạo lực của vợ, chồng được lặp đi lặp lại nhiều lần, đã được chính quyền địa phương nhắc nhở hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc có văn bản của cơ quan điều tra có dấu hiệu tội phạm nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự”.

      Có thể nói chế định ly hôn trong luận Hôn nhân và gia đình 2014 quy định khá đầy đủ và chi tết. Tuy nhiên vẫn còn một số bất cập mà pháp luật quy định vẫn chưa được thỏa đáng. Vì vậy, thông qua bài đánh giá này em mong mọi người có thêm hiểu biết về chế định ly hôn trong luật Hôn nhân và gia đình 2014 và áp dụng vào thực tế một cách dễ dàng và chính xác nhất.


Danh mục tài liệu tham khảo:

  • Luật Hôn nhân và gia đình 2014
  • Luật Hôn nhân và gia đình 2000
  • Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật HNGĐ Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2007.
  • Viện Đại học mở, Giáo trình luật HNGĐ Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2015.
  • Ngô Thị H¬ường, Chế định cấp dư¬ỡng trong Luật HNGĐ – Vấn đề lí luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ luật học, Trư¬ờng Đại học Luật Hà Nội, năm 2006.
  • Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HNGĐ Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trư¬ờng Đại học Luật Hà Nội, năm 2005

       Trên đây là toàn bộ thông tin mà chúng tôi cung cấp đến bạn về vấn đề: Đánh giá chế định ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Để được tư vấn cụ thể hơn bạn vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn luật trực tuyến qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy.

       Trân trọng ./.


 

phone-call

GỌI HỎI ĐÁP MIỄN PHÍ

Scroll to Top