Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của vợ chồng

      Gia đình là một hình thức tổ chức đời sống cộng đồng của con người, một thiết chế văn hóa – xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục … giữa các thành viên. Để có thể hướng tới một cuộc hôn nhân ổn định, lâu dài, bền vững thì một vấn đề vô cùng quan trọng cần phải quan tâm đến đó chính là đời sống vật chất, kinh tế, tiền bạc, tài sản của vợ chồng. Chính vì thế, chế định tài sản của vợ chồng luôn được các nhà làm luật pháp quan tâm, nghiên cứu, xây dựng thành một chế định riêng, cơ bản, quan trọng nhất được quy định cứng trong Luật Hôn nhân và Gia đình qua tất cả các thời kỳ. Để tìm hiểu rõ hơn về một khía cạnh trong vấn đề này, em xin lựa chọn đề bài số 3: “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của vợ chồng” để làm đề tài cho bài tập học kì.


Danh mục tài liệu tham khảo:

  • Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.
  • Phan Vạn Quốc (2015), “Những điểm tiến bộ về chế định tài sản riêng của Vợ, Chồng theo quy định Luật HN&GĐ năm 2014”, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Vân Canh, Bình Định, www.vksbinhdinh.gov.vn
  • Bộ Tư pháp, Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý (1996), Thông tin chuyên đề về Luật Hôn nhân và Gia đình, Hà Nội.
  • Chính phủ (2014), Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình 2014, Hà Nội.
  • Nguyễn Văn Cừ (2005), Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
  • Nguyễn Văn Cừ (2008), Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
  • Nguyễn Văn Cừ (2015) Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật hôn nhân và gia đình, Tạp chí Luật học số 4/2015, tr. 3-10.
  • THs. Đoàn Thị Ngọc Hải (2018), “Chế định tài sản của vợ chồng theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình”, tapchitoan.vn

Một số vấn đề lý luận về tài sản riêng của vợ chồng

Khái niệm về tài sản riêng của vợ chồng

      Điều 43 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản được chia riêng cho vợ, chồng do vợ, chồng thoả thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng. Tài sản riêng có hai thời điểm hình thành, đó là có trước, có trong thời kỳ hôn nhân và có thể nhận diện qua thời điểm các tài sản này được xác lập, cấp giấy chứng nhận sở hữu, sử dụng.

      Như vậy, pháp luật công nhận vợ, chồng có quyền có tài sản riêng. Vấn đề quy định tài sản riêng của vợ chồng là rất đúng đắn không những giúp giải quyết tốt hơn những vụ án chia tài sản khi ly hôn cũng như nhưng vụ án chia thừa kế, hợp đồng dân sự, thương mại…

Đặc điểm về tài sản riêng của vợ, chồng

      Thứ nhất, chủ thể của quan hệ sở hữu trong chế độ tài sản riêng của vợ chồng phải có quan hệ hôn nhân hợp pháp: là vợ chồng của nhau, có đủ năng lực chủ thể trong pháp luật dân sự và tuân thủ các điều kiện kết hôn trong pháp luật hôn nhân và gia đình (các điều kiện về tuổi kết hôn, điều kiện về sự tự nguyện, không vi phạm các quy định về cấm kết hôn).

      Thứ hai, chế độ tài sản riêng của vợ chồng gắn liền với quan hệ hôn nhân, tồn tại trong thời kỳ hôn nhân, chấm dứt khi quan hệ hôn nhân chấm dứt và chế độ tài sản này tồn tại như một tất yếu khách quan của quan hệ hôn nhân. Xuất phát từ quan hệ hôn nhân, chế độ tài sản riêng lệ thuộc vào sự tồn tại của hôn nhân và chấm dứt khi vợ hoặc chồng chết trước, hoặc có 1 bản án, quyết định của Tòa án cho vợ chồng ly hôn. Những quy định của pháp luật về chế độ tài sản riêng của vợ chồng là cơ sở tạo điều kiện để vợ chồng chủ động thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình đối với tài sản của vợ, chồng.

      Thứ ba, các văn bản quy phạm pháp luật về chế độ tài sản riêng của vợ chồng là căn cứ pháp lý để cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng với nhau và với người khác có liên quan đến tài sản của vợ chồng. Tòa án sẽ giải quyết phân chia tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng khi có yêu cầu và bảo đảm quyền lợi của vợ, chồng và người khác có liên quan đến tài sản của vợ chồng.

Ý nghĩa trong việc quy định tài sản riêng của vợ chồng

      Việc ghi nhận vợ, chồng có quyền có tài sản riêng tạo ra cơ sở pháp lý để vợ, chồng chủ động tham gia vào các giao dịch dân sự và kinh tế, bảo đảm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của các thành viên trong gia đình cũng như cá nhân vợ, chồng. Đồng thời, phân định rõ trách nhiệm của các bên vợ, chồng trong quản lý, sử dụng và định đoạt tài sản. Qua đó giúp minh bạch hóa các giao dịch dân sự mà mỗi bên chủ thể là vợ, chồng, tạo căn cứ pháp lý trong giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản của vợ, chồng, giúp cho người có quyền (người thứ 3) xác định được nghĩa vụ mà vợ chồng phải thực hiện được bảo đảm bằng tài sản chung hay bằng tài sản riêng, tức là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền khi vợ chồng là người có nghĩa vụ, lợi ích của cộng đồng và của xã hội vì thế cũng được bảo đảm Việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của vợ, chồng còn góp phần hạn chế các quan hệ hôn nhân được thiết lập không dựa trên yếu tố tình cảm chân thành mà được dựa trên yếu tố vật chất-hôn nhân thực dụng.


Cơ sở pháp lý về việc ghi nhận quyền có tài sản riêng vợ chồng

Các quy định của pháp luật trong việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của vợ chồng

       Căn cứ vào Hiến pháp 2013:

      Hiến pháp là văn bản pháp luật có giá trị cao nhất trong hệ thống pháp luật của Việt Nam. Tất cả các văn bản luật khác ban hành đều phải tuân thủ theo Hiến pháp. Hiến Pháp là một bộ luật gốc qui định những nguyên tắc cơ bản nhất xây dựng một trật tự xã hội ổn định, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, một chế độ có tự do dân chủ nhưng phải tập trung, trong khuôn khổ pháp luật. Theo đó, hiến pháp đã quy định về chế độ tài sản của vợ chồng. Đây là một phạm trù thuộc quyền sở hữu công dân được ghi nhận trong Điều 32 – Hiến pháp 2013: “. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác…” Quyền sở hữu là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội cũng như trong pháp luật. Nó là một trong những tiền đề vật chất cho kinh tế, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Quyền sở hữu là vấn đề quan trọng nhất của pháp luật dân sự.

Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của vợ chồng

        Căn cứ vào bộ luật dân sự Việt Nam năm 2015:

        Luật Dân sự Việt Nam là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ tài sản và các quan hệ nhân thân trên cơ sở bình đẳng, độc lập của các chủ thể. Bộ luật dân sự ra đời khẳng định vị trí trung tâm của chế định “tài sản và quyền sở hữu” đóng vai trò trung tâm, tạo cơ sở pháp lý cho các chế định khác trong Bộ luật cũng như các văn bản pháp luật khác về quan hệ tài sản. Bởi lẽ, quyền sở hữu là cơ sở, là mục đích của rất nhiều quan hệ pháp luật dân sự. Qua đó, luật dân sự đã quy định rất đầy đủ về quyền sở hữu, các căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt tại Điều 158, 160, 161,…; các quy định về thừa kế, di tặng tại Chương XXI,…và các điều khoản về bảo vệ quyền sở hữu. Luật Hôn nhân và gia đình 2014 cũng đã quy định tại Điều 6: “Các quy định của Bộ luật dân sự liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình được áp dụng đối với quan hệ hôn nhân và gia đình trong trường hợp pháp luật về hôn nhân và gia đình không có quy định”. Quy định vợ chồng có quyền có tài sản riêng là hợp lí, tôn trọng quyền sở hữu cá nhân tuyệt đối của con người.

        Căn cứ vào Luật Hôn nhân và gia đình 2014: 

        Luật hôn nhân và gia đình có nhiệm vụ góp phần xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các thành viên trong gia đình, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững. Cụ thể, Luật Hôn nhân và gia đình đã đề cập đến chế độ tài sản của vợ chồng; là các quy phạm pháp luật điều chỉnh việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu tài sản của vợ chồng và xác định những xử sự được phép liên quan đến những tài sản. Ở Việt Nam, pháp luật công nhận chế độ tài sản riêng của vợ, chồng. Khi hôn nhân đang tồn tại, mỗi bên hoặc cả hai bên đều có quyền xác định quyền sở hữu riêng. Chế độ đó vừa tạo điều kiện cho họ chủ động trong hoạt động kinh doanh, vừa tránh được những rủi ro có thể xảy đến cho cuộc sống gia đình. Đây là cơ sở pháp lý đảm bảo quyền lợi và lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và những bên có liên quan.

        Điều 43 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản được chia riêng cho vợ, chồng do vợ, chồng thoả thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng. Tài sản riêng có hai thời điểm hình thành, đó là có trước, có trong thời kỳ hôn nhân và có thể nhận diện qua thời điểm các tài sản này được xác lập, cấp giấy chứng nhận sở hữu, sử dụng.

Các loại chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật

        Tài sản riêng của vợ, chồng bao gồm tài sản mà mỗi bên vợ, chồng có từ trước khi kết hôn:

        Việc ghi nhận vợ, chồng có tài sản riêng đã bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ, chồng về tài sản. Nguồn gốc tài sản riêng của vợ, chồng gồm những tài sản mà mỗi bên đã có từ trước khi kết hôn. Trước khi kết hôn, vợ chồng đều là những chủ thể pháp lý độc lập với các quyền và nghĩa vụ độc lập không có sự ràng buộc pháp lý trong mối quan hệ hôn nhân gia đình. Như vậy, các tài sản có được do thu nhập từ lao động, kinh doanh hợp pháp từ trước thời điểm kết hôn nếu không nhập vào tài sản chung thì sẽ được quy định là tài sản riêng. Những tài sản này thuộc quyền sở hữu riêng của mỗi bên và được pháp luật thừa nhận, bảo hộ; Những tài sản này không phải do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân, không chịu sự tác động bởi tính chất cộng đồng của quan hệ hôn nhân và lợi ích chung của gia đình Tuy nhiên, các tài sản mà việc chuyển quyền sở hữu được giao kết trước khi kết hôn, nhưng được thực hiện sau khi kết hôn, hay xác lập quyền sở hữu hoàn tất sau khi kết hôn thì sẽ là tài sản chung chứ không thể là của riêng.

        Tài sản mà vợ hoặc chồng được thừa kế riêng hoặc tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân:

        Những tài sản này không do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân mà được định đoạt bởi ý chí của chủ sở hữu. Quy định này nhằm bảo đảm quyền tự định đoạt của các chủ sở hữu tài sản theo quy định của pháp luật về chuyển dịch tài sản của mình cho bên vợ, chồng được hưởng. Xét về nguồn gốc tài sản, những tài sản mà vợ, chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân thuộc quyền sở hữu riêng của vợ chồng. Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định những tài sản này thuộc khối tài sản riêng của vợ, chồng nhằm bảo đảm quyền tự định đoạt của các chủ sở hữu tài sản, theo quy định của pháp luật dân sự, chuyển dịch tài sản của mình cho mỗi bên vợ, chồng được hưởng. Bởi lẽ ý chí của chủ sở hữu chỉ tặng cho riêng, hoặc để lại di chúc trước khi chết chỉ cho vợ, chồng được hưởng di sản của họ, chứ không phải cho chung cả hai vợ chồng. Những tài sản này không phải do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân, theo công sức và thu nhập của vợ, chồng, nên không thể tính thuộc vào khối tài sản chung của vợ chồng. Thực tế những tài sản mà vợ, chồng được thừa kế riêng, tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân thường do những người thân thích ,bạn bè của vợ, chồng cho mỗi bên vợ, chồng được hưởng giá trị tài sản đó.Có thể do cha mẹ tặng cho riêng con trong ngày cưới; cha mẹ chồng (vợ) khi chết đã để lại di chúc chỉ cho con mình là người chồng, vợ được hưởng khối di sản đó… Trong trường hợp chủ sở hữu tuyên bố cho chung hai vợ khối tài sản nào đó,tuy nhiên họ xác định kỷ phần giá trị tài sản từ trước cho mỗi bên vợ, chồng được hưởng thì về nguyên tắc phần tài sản đó thuộc quyền sở hữu riêng của mỗi bên vợ, chồng; chỉ tài sản chung khi vợ, chồng tự nguyện nhập vào tài sản chung hoặc có thỏa thuận tài sản đó là tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng. Đối với trường hợp vợ, chồng cùng hàng thừa kế theo pháp luật, phần di sản mà mỗi bên vợ, chồng được hưởng theo suất thừa kế là bằng nhau, về nguyên tắc sẽ thuộc khối tài sản riêng của vợ, chồng, chỉ là tài sản chung khi vợ chồng tự nguyện nhập vào khối tài sản chung hoặc vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

        Tài sản được chia riêng cho vợ, chồng gồm những tài sản mà vợ, chồng được chia khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân:

        Khoản 1 Điều 40 Luật HN&GĐ năm 2014 đã dự liệu về hậu quả pháp lý sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Những tài sản mà vợ, chồng được chia, kể cả hoa lợi, lợi tức phát sinh từ phần tài sản riêng được chia, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng. Vì vậy trong khối tài sản riêng của vợ, chồng, ngoài những tài sản mà vợ, chồng có trước khi kết hôn; những tài sản được tặng cho riêng, được thừa kế riêng còn có cả tài sản chia từ tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.

        Tài sản riêng là tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng:

        Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã đưa ra căn cứ xác định tài sản riêng còn là các “tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của gia đình”. Sở dĩ, pháp luật quy định nhóm tài sản này thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng là dựa vào đặc điểm cũng như tác dụng của nó. Đảm bảo được quyền tự do cá nhân cũng như các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Tuy nhiên, như thế nào được coi là “thiết yếu” thì đây là một vấn đề cần được xem xét. Đối với những cá nhân hoặc những gia đình có mức sống khác nhau thì khái niệm đồ dùng thiết yếu sẽ không giống nhau. Chẳng hạn như, đối với cá nhân này thì những vật dụng như xoong, nồi, bát đĩa, giày dép, quần áo là những đồ dùng thiết yếu hàng ngày, nhưng đối với cá nhân khác thì lại xem những vật dụng như điện thoại, laptop, ô tô, tủ lạnh… là những đồ dùng thiết yếu của mình, do vậy nó tuỳ thuộc vào điều kiện sống của mỗi cá nhân cụ thể là khác nhau. Việc pháp luật quy định cụ thể như vậy được coi là một bước đột phá tiến bộ, linh hoạt và đã thể hiện rất rõ việc trao quyền tài phán cho cơ quan xét xử (Toà án) trong việc xem xét để giải quyết vụ việc dựa trên hoàn cảnh cụ thể của từng cá nhân, gia đình khi phát sinh quan hệ pháp luật tranh chấp.

Quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản riêng

        Quyền của vợ, chồng đối với tài sản riêng Khoản 1 Điều 44 luật HN&GD 2014 quy định: “Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình; nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung”. Với tư cách là chủ sở hữu tài sản của mình, vợ, chồng có toàn quyền sở hữu (quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt) đối với tài sản riêng, không phụ thuộc bởi ý chí của bên người chồng, vợ kia. Đối với tài sản riêng của vợ, chồng mỗi bên sẽ tự quản lý tài sản riêng của mình. Trong trường hợp vợ hoặc chồng không thể tự quản lý tài sản riêng và cũng không ủy quyền cho người khác quản lý thì bên vợ, chồng kia có quyền quản lý tài sản riêng đó (khoản 2 Điều 44). Đối với tài sản riêng, vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung của vợ chồng (khoản 1 Điều 46 luật HN&GĐ năm 2014) quy định này có tính chất tùy nghi cho phép vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung của vợ chồng, nó làm mềm quyền sở hữu của vợ, chồng trong quan hệ gia đình dựa trên yếu tố tình cảm vốn rất tế nhị và phức tạp. Tuy nhiên vấn đề vợ, chồng đã nhập hay chưa nhập tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung của vợ chồng khi có tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng rất phức tạp. Việc nhập tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất và các tài sản khác có giá trị lớn thuộc sở hữu riêng của mỗi bên vợ hoặc chồng vào tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại khoản 2 Điều 46 của Luật HN&GĐ phải tuân theo hình thức nhất định thì thỏa thuận phải bảo đảm hình thức đó. Quy định này là căn cứ khi xác định vợ, chồng có tài sản riêng đã nhập hay chưa nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng.

        Nghĩa vụ tài sản riêng của vợ, chồng: Theo khoản 3 Điều 44 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Nghĩa vụ tài sản riêng của mỗi người được thanh toán từ tài sản riêng của người đó”. Nghĩa vụ về tài sản của vợ, chồng (còn gọi là nợ riêng của vợ, chồng) phát sinh từ các khoản nợ mà vợ, chồng vay của người khác, sử dụng vào mục đích cá nhân mà không vì mục đích của gia đình hoặc nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của vợ, chồng hay các loại nghĩa vụ khác theo luật định (nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình như cha, mẹ, vợ, chồng, con mà vợ chồng phải thực hiện). Như vậy theo quy định của pháp luật, vợ, chồng phải bằng tài sản riêng của mình để bảo đảm thực hiện các loại nghĩa vụ sau đây: Một là, nghĩa vụ trả các khoản nợ mà vợ, chồng đã vay của người khác trước khi kết hôn mà không vì nhu cầu đời sống chung của gia đình. Hai là, nghĩa vụ trả các khoản nợ mà vợ, chồng đã vay của người khác trong thời kỳ hôn nhân sử dụng vào mục đích riêng, không đáp ứng các nhu cầu thiết yếu và lợi ích chung của gia đình. Ba là, nghĩa vụ trả các khoản nợ phát sinh trong quá trình quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp nợ phát sinh khi vợ, chồng đã tiến hành khai thác các hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân mà vợ chồng không thỏa thuận những hoa lợi, lợi tức đó vẫn thuộc tài sản riêng của mỗi người. Bốn là, nghĩa vụ cấp dưỡng mà vợ, chồng phải thực hiện liên đới với các thành viên trong gia đình theo quy định tại chương V (quan hệ giữa ông bà nội, ông bà ngoại, giữa anh chị em và các thành viên trong gia đình) và chương VI (cấp dưỡng) của luật HN&GĐ năm 2014. Năm là, nghĩa vụ trả các khoản nợ phát sinh dựa trên cơ sở vợ, chồng đã có hành vi tự mình tiến hành các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn của vợ chồng hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình (vi phạm khoản 3 Điều 45 Luật HN&GĐ). Sáu là, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh từ hành vi trái pháp luật của vợ, chồng. Về nguyên tắc đối với các khoản nợ và nghĩa vụ phát sinh trên đây, vợ, chồng có nghĩa vụ phải thanh toán, bồi thường bằng tài sản riêng của mình; nếu tài sản riêng không có hoặc không đủ thì trích chia phần tài sản của vợ, chồng trong khối tài sản chung của vợ chồng (sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân) để thực hiện nghĩa vụ. Những quy định này là cơ sở pháp lý cho việc xác định nghĩa vụ của vợ, chồng được thực hiện bằng tài sản riêng hoặc theo thỏa thuận trong thực tiễn.


Cơ sở thực tiễn của việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của vợ chồng

        Thứ nhất, quy định vợ chồng có quyền có tài sản riêng là vì để tôn trọng quyền sở hữu cá nhân tuyệt đối của con người. Trước khi kết hôn, hai bên nam nữ chưa phải là vợ chồng của nhau trước pháp luật. Theo tính chất nghề nghiệp, công việc của mỗi người, các tài sản đó do mỗi người tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và các thu nhập hợp pháp khác của mỗi người đều thuộc quyền sở hữu của mỗi bên vợ chồng. Với tư cách là công dân, mỗi bên vợ chồng là chủ sở hữu những tài sản của mình có được trước khi kết hôn, những tài sản riêng và quyền sở hữu của mỗi người đối với tài sản riêng đó được pháp luật thừa nhận và bảo hộ. Hầu hết pháp luật các nước cũng như Luật Hôn nhân và gia đình nước ta ghi nhân chế độ tài sản riêng của vợ chồng.

        Thứ hai, quy định vợ chồng có tài sản riêng sẽ giúp hai bên giải quyết các vấn đề như giúp đỡ bạn bè, người thân mà vẫn giữ tình nghĩa vợ chồng. Trong thực tế, nhiều cặp vợ chồng thường xích mích chỉ vì vợ hoặc chồng phải gánh vác quá nhiều trách nhiệm với cha mẹ, anh chị em… Những cặp vợ chồng có tài khoản riêng đều cho rằng, họ cảm thấy thoải mái, dễ chịu hơn khi bản thân hoặc chồng giúp đỡ người thân, bạn bè bằng tài khoản riêng của mỗi người. Những khoản chi của mỗi cá nhân cho nhu cầu riêng, dù không mờ ám, nhưng lâu ngày sẽ khiến người kia khó chịu, đến một lúc nào đó trở thành bất hòa. Tài khoản riêng cho phép mỗi người đảm bảo được những nhu cầu cần thiết và giảm bớt sự chú ý đến thói quen chi tiêu của người bạn đời. Nhờ đó, giải tỏa được áp lực cho cả hai.

        Thứ ba, xuất phát từ nhu cầu kinh doanh riêng của từng người. Do tính chất của công việc kinh doanh buôn bán cần chớp thời cơ, chủ động để đạt hiệu quả cao nhất. Mặt khác có thể do tài sản làm vốn không đủ cần lấy từ khối tài sản chung. Luật hôn nhân và gia đình đã qui định và ghi nhận ở Điều 36 về đưa tài sản chung vào kinh doanh, đầu tư riêng. Pháp luật quy định như vậy là nhằm tạo điều kiện cho cá nhân tham gia kinh doanh, sản xuất bằng tài sản của riêng mình tạo ra sự tách bạch giữa tài sản cá nhân với tài sản chung. Việc tách bạch tải sản chung, riêng của vợ chồng còn tránh trường hợp một bên làm ăn thua lỗ, sẽ không ảnh hưởng đến tài sản của người kia. Như vậy, quyền lợi chính đáng về tài sản của mỗi bên vợ chồng được bảo vệ, cũng như của những người có liên quan.


Tình huống giải quyết tranh chấp về tài sản riêng của vợ chồng và đề xuất hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này

Tình huống

        Vợ chồng anh A, chị B chung sống với nhau được năm, có đăng ký kết hôn. Trong thời kỳ hôn nhân cha mẹ anh A có cho đất, sau đó vợ chồng anh chị A,B xây nhà. Tiền xây nhà do anh của A ở nước ngoài gửi về cho. Khi hợp thức hóa nhà đất cũng chỉ một A đứng tên. Hiện nay, vợ chồng A và B đã ly hôn. Giải quyết vấn đề: tài sản được tặng cho là của chung hay riêng, và anh A có phải chia tài sản cho chị B không, trong khi chị B không hề góp tiền để tạo lập?

        Theo Điều 43 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định về tài sản riêng của vợ chồng gồm tài sản mà mỗi người có được trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân… Như vậy, nếu không có tranh chấp, anh A không có thỏa thuận với vợ là nhập tài sản nói trên vào khối tài sản chung của vợ chồng thì đương nhiên đây là tài sản riêng của anh A. Trường hợp chị B tranh chấp, anh A phải chứng minh được nguồn gốc, rằng anh được cha mẹ cho đất và anh mình ở nước ngoài cho tiền xây nhà thể hiện qua: văn tự hoặc hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, thư chuyển tiền… mà ý chí của những người tặng cho là cho riêng anh A. Theo Điều 459 Bộ luật dân sự về việc tặng cho bất động sản thì tại có quy định như sau: “1. Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của luật. 2. Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản.”. Sau đó, anh dùng số tiền đó tạo lập nhà, bản thân anh và chị B cũng không bỏ tiền ra để xây cất. Việc chứng minh này rất quan trọng, vì khoản 3, điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình có quy định: “Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung”. Mặc dù Luật quy định được thừa kế riêng, cho riêng nhưng trong thực tế rất phức tạp. Thông thường Tòa án vẫn chấp nhận cho riêng nếu như văn bản giấy tờ, hình thức đã xác định là cho riêng và sau này việc đi đăng ký, việc sử dụng đất, nhà tiếp tục lấy tên riêng. Chúng ta phải kết hợp với các chứng cứ khác và nói chung phải dựa vào các văn bản, chứng cứ từ thời được giao tài sản đó. Mặt khác, nếu chị B chứng minh được rằng chị ấy có đóng góp công sức trong việc tạo lập căn nhà và có yêu cầu được chia tài sản, thì anh A vẫn có thể phải chia một phần theo chia theo công sức đóng góp tài sản cho chị ấy. Vấn đề này nếu các bên không tự thỏa thuận phân chia được có thể nhờ tòa án giải quyết.

Kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về chế độ tài sản riêng của vợ chồng

        Một là, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến và nâng cao nhận thức cho người dân về quyền có tài sản riêng của vợ, chồng. Công tác tuyên truyền, phổ biến và nâng cao nhận thức cho người dân về pháp luật hôn nhân và gia đình nói chung và chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận nói riêng đóng một vai trò quan trọng trong định hướng, giúp người dân nhận thức, hiểu biết và thực hiện. Việc hiểu biết đúng quy định của pháp luật giúp người dân có thể lựa chọn chế độ tài sản phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện kinh tế… để điều chỉnh quan hệ tài sản trong quan hệ hôn nhân. Đồng thời giúp người dân hiểu đúng và thực hiện đúng quy định của pháp luật, biết được quyền và lợi ích chính đáng mà mình được hưởng, góp phần làm hạn chế tranh chấp về tài sản trong gia đình.

        Hai là, cần nâng cao chất lượng công chứng. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định văn bản thỏa thuận cần phải có công chứng hoặc chứng thực cho nên công chứng là nhằm xác nhận tính hợp pháp về mặt nội dung và hình thức của văn bản thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng vì vậy cần thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ cho công chứng viên; tăng cường hướng dẫn, định hướng công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về công chứng; tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với tổ chức hành nghề công chứng. Bên cạnh đó, cần có cơ chế hỗ trợ công chứng phát triển, tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát chặt chẽ các tổ chức hành nghề công chứng để đảm bảo chất lượng công chứng.

        Ba là, về vấn đề áp dụng phong tục, tập quán trong hôn nhân và gia đình. Qua thực tiễn triển khai, thi hành pháp luật về hôn nhân và gia đình cho thấy, quy định pháp luật về chế độ tài sản theo thỏa thuận nói riêng và hôn nhân và gia đình nói chung còn thiếu hoặc chưa cụ thể. Do vậy, để khắc phục vấn đề này, Tòa án cần đa dạng hóa việc áp dụng pháp luật, trong đó, vận dụng các phong tục tập quán, truyền thống tốt đẹp trong đời sống xã hội về hôn nhân và gia đình. Ngoài ra, cũng cần thiết phải công nhận hình thức án lệ áp dụng các cho các trường hợp tranh chấp liên quan đến tài sản của vợ chồng nói chung và chế độ tài sản theo thỏa thuận nói riêng mới phát sinh khi chưa có quy định pháp luật điều chỉnh, trên cơ sở bảo đảm an toàn pháp lý và sự ổn định trong các giao dịch, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Đồng thời, Tòa án nhân dân tối cao cần định kỳ ban hành tập hợp các án lệ điển hình để Tòa các cấp học tập và rút kinh nghiệm trong công tác xét xử.

        Bốn là, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xét xử, giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản của vợ chồng. Thực tiễn cho thấy, việc tranh chấp liên quan đến tài sản của vợ chồng ngày càng gia tăng về số lượng và mức độ phức tạp, do vậy, cần tăng cường công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ xét xử cho đội ngũ thẩm phán và cán bộ Tòa án đáp ứng yêu cầu thực tiễn các vụ xét xử.

        Chế độ tài sản của vợ chồng thực chất là chế độ sở hữu đối với tài sản của vợ chồng. Nhận thức được tầm quan trọng của lĩnh vực hôn nhân và gia đình nói chung và chế độ tài sản của vợ chồng nói riêng đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Kể từ khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có hiệu lực đến nay, các quy định pháp luật về quyền có tài sản riêng của vợ chồng đã từng bước đi vào cuộc sống.

      Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc thi hành và áp dụng pháp luật về chế độ tài sản riêng của vợ chồng đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập cần được khắc phục, hoàn thiện. Hy vọng các nhà làm luật sẽ có những giải pháp hay, thực tế để hoàn thiện pháp luật về chế độ tài sản riêng của vợ chồng và pháp luật về hôn nhân và gia đình nói chung trong thời gian tới, bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền công dân theo quy định tại Hiến pháp năm 2013.


       Trên đây là toàn bộ thông tin mà chúng tôi cung cấp đến bạn về vấn đề: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của vợ chồng . Để được tư vấn cụ thể hơn bạn vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn luật trực tuyến qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy.

       Trân trọng ./.


 

phone-call

GỌI HỎI ĐÁP MIỄN PHÍ

Scroll to Top