Công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo đất nước luôn là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và nhà nước ta. Chính vì vậy, để thực hiện tốt nhiệm vụ đó nhà nước ta đã ban hành các đạo luật quan trọng để điều chỉnh, và luật hình sự là một trong những công cụ đắc lực nhất. Thế nhưng, trong những năm gần đây tình hình tội phạm ở nước ta đang có xu hướng gia tăng về cả số lượng, thủ đoạn lẫn quy mô. Diễn biến phức tạp nhất là ở nhóm các tội xâm phạm sở hữu, đặc biệt là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tội danh này đang trở thành nỗi lo của nhiều người, gây mất trật tự an toàn xã hội. Chính vì vậy nghiên cứu về tội danh này không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Đó chính là lý do em chọn đề tài “Phân tích, cho ví dụ minh họa để làm rõ dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015” để làm bài tiểu luận thi kết thúc học phần của mình.
Nội dung
Lý luận chung về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
“Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” được quy định tại Điều 174 của BLHS. Điều luật được xây dựng với 05 khoản, với các điểm, qua đó điều luật đã quy định chi tiết các dấu hiệu pháp lí, các khung hình phạt. Điều luật là kết tinh của kinh nghiệm thực tiễn và kỹ năng lập pháp, qua đó giúp của mọi người hiểu và nắm bắt được quy định của pháp luật về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Vậy như thế nào là lửa đào chiếm đoạt tài sản? Tội danh này được quy định ra sao trong BLHS Việt Nam?
Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Trong bối cảnh xã hội có nhiều biến động như hiện nay, thì tình trạng lừa đảo chiếm đoạt tài sản diễn ra rất phổ biến và ngày càng tinh vi. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại chương các tội xâm phạm sở hữu. “Các tội xâm phạm sở hữu” được quy định tại chương XVI của BLHS năm 2015, gồm 13 Điều, từ Điều 168 đến Điều 180. Và giáo trình luật hình sự Việt Nam của trường đại học Luật Hà Nội đã đưa ra khái niệm của nhóm tội này như sau: “Các tội xâm phạm sở hữu là những hành vi có lỗi, xâm hại quan hệ sở hữu và sự xâm hại này thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi”. Cũng theo giáo trình luật hình sự Việt Nam của trường đại học Luật Hà Nội, thì nhóm các tội xâm phạm sở hữu này sẽ được chia thành 02 nhóm, dựa vào tính chất của mục đích phạm tội. Đó là nhóm các tội có mục đích tư lợi gồm 10 tội danh đầu, và nhóm các tội không có mục đích tư lợi gồm các tội danh còn lại. Nhóm các tội có mục đích tư lợi lại được chia thành 02 nhóm, đó là nhóm có tính chiếm đoạt gồm 08 tội đầu và nhóm không có tính chiếm đoạt gồm 02 tội còn lại.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc nhóm các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt. Theo đó, nhóm tội này được hiểu:“Các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt là những tội xâm phạm sở hữu vằng việc chiếm đoạt do vậy trong CTTP của những tội này có dấu hiệu chiếm đoạt”. Do vậy, khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải phù hợp với quy định chung về tội xâm phạm sở hữu nhưng cũng phải đảm bảo mang tính đặc thù riêng của tội danh. Theo khoản 1 Điều 174 BLHS năm 2015: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác…”. Như vậy, ta có thể hiểu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội xâm phạm sở hữu, với mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác, người phạm tội đã dùng những thủ đoạn gian dối, đưa ra những thông tin sai sự thật bằng lời nói hoặc hành động khiến người có tài sản hoặc người có trách nhiệm trông giữ tài sản tin nhầm, tưởng là thật, tự nguyện giao tài sản.
Từ những phân tích trên, ta có thể đưa ra khái niệm về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau: “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong những tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, được thực hiện bằng thủ đoạn gian dối”.
Đặc điểm của tội danh
Mặc dù được quy định trong chương các tội xâm phạm sở hữu, nhưng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một tội riêng, được quy định độc lập tại Điều 174 nên tôi danh này sẽ có các đặc điểm riêng biệt, bao gồm:
Thứ nhất: Người thực hiện hành vi phạm tội gây nguy hiểm cho xã hội – đó là hành vi dùng thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản.
Thứ hai: Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp. Vì hơn hết người phạm tội nhận thức rõ được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn mong muốn hậu quả xảy ra.
Thứ ba: Hành vi dùng thủ đoạn gian dối của người phạm tội nhằm mục đích chiếm đoạt đã xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác
Cuối cùng: Chủ thể là chủ thể thường, do người có NLTNPL thực hiện.

Dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Tội phạm theo luật hình sự Việt Nam, phải là hành vi của con người. Những gì mới chỉ trong tư tưởng, chưa thể hiện ra bên ngoài bằng hành vi thì không thể là tội phạm. Và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng vậy, một người chỉ bị xử lí về tội này khi đảm bảo các yếu tố trên. Để có cái nhìn bao quát hơn về tội danh này cần phải nghiên cứu các dấu hiệu pháp lí của nó. Theo luật hình sự Việt Nam, dấu hiệu pháp lí của một tội danh bao gồm: khách thể, mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm.
Khách thể của tội phạm
Trong luật hình sự, đối tượng bị tội phạm hướng tới gây thiệt hại được gọi là khách thể của tội phạm. Có nhiều quan điểm khác nhau về khách thể của tội phạm, nhưng trên cơ sở Điều 8 BLHS năm 2015 quy định về khái niệm tội phạm thì giáo trình luật hình sự Việt Nam của trường đại học Luật Hà Nội đã đưa ra định nghĩa khách thể của tội phạm như sau: “khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại”.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định trong chương XVI các tội xâm phạm sở hữu nên khách thể của tội danh này là:“Quan hệ sở hữu”. Quan hệ sở hữu là quan hệ xã hội trong đó quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản được tôn trọng và bảo vệ, nên hành vi xâm hại đến quan hệ sở hữu là những hành vi xâm hại đến quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của chủ sở hữu. Do đặc điểm của tội danh này không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung hình phạt nên tội này chỉ xâm phạm đến một khách thể duy nhất là quan hệ sở hữu. Đây là dấu hiệu phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội khác như: tội cướp giật tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản…
Ví dụ: Tội cướp giật tài sản ngoài khách thể là “quan hệ sở hữu”, thì trong tội danh này còn quy định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung hình phạt nên nó còn xâm phạm đến khách thể khác được luật hình sự bảo vệ là “quan hệ nhân thân”. Còn tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chỉ xâm phạm đến “quan hệ sở hữu”.
Đối tượng tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Như mọi hành vi phạm tội khác, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng có đối tượng tác động cụ thể. Đó là “tài sản”, theo Điều 105 BLDS năm 2015 thì tài sản bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá, quyền tài sản. Tài sản luôn là đối tượng tác động của tội này, nhưng những tài sản đó trước hết phải có giá trị sử dụng, phải thuộc về một chủ sở hữu hợp pháp, và có thể thực hiện được các giao dịch thông thường theo quy định của pháp luật như: mua, bán, trao đổi…Tóm lại tài sản là đối tượng tác động của tội này phải được thể hiện dưới dạng vật chất. Giấy tờ có giá vẫn có thể là đối tượng tác động của tội này, ví dụ: hóa đơn lĩnh hàng…
Tuy nhiên cần lưu ý một số tài sản sau không thể là đối tượng tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, như: Thứ nhất, một số vật có tính chất và công dụng đặc biệt. Ví dụ: hệ thống thông tin liên lạc, vũ khí quân dụng. Thứ hai, vật không có giá trị sử dụng. Ví dụ: vật bị hư hỏng không thể sửa chữa. Thứ ba, tài sản vô chủ và tài sản chôn cùng người chết. Thứ tư, vật khi không còn là tài sản vì đã bị chủ tài sản hủy bỏ. Ví dụ: gia cầm bị dịch bệnh đã bị chôn.
Pháp luật luôn bảo vệ tài sản hợp pháp của công dân. Mọi hành vi xâm phạm quyền sở hữu của công dân đều bị xử lí, tuy nhiên không phải những hành vi xâm phạm tài sản bất hợp pháp không phải là tội phạm. Trong những trường hợp nhất định, hành vi đó vẫn cấu thành tội danh được quy định tại Điều 174 này.
Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm bao gồm: Hành vi khách quan, hậu quả thiệt hại, các biểu hiện khác. Do vậy, mặt khách quan của tội phạm được hiểu là: “Mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan”. Mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng vậy, cũng được xây dựng với những yếu tố trên, mang những đặc trưng nhất định.
Hành vi khách quan
“Hành vi khách quan là biểu hiện của con người ra bên ngoài thế giới khách quan dưới hình thức cụ thể nhằm đạt mục đích có chủ định”. Trong mặt khách quan của tội phạm, hành vi khách quan là biểu hiện cơ bản nhất, là tiền đề tiên quyết cho các dấu hiệu khác. Hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao gồm: hành vi “chiếm đoạt” và hành vi “lừa dối”.
Hành vi lừa dối: là hành vi cố ý đưa ra thông tin không đúng sự thật để người khác tin đó là sự thật. Hành vi này có thể được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau như bằng lời nói, hành động hoặc những hành động khác(đưa sai, đếm thiếu…) nhằm đưa ra những thông tin không chính xác khiến cho chủ sở hữu, hoặc người quản lí tin đó là sự thật và tự nguyện trao tài sản. Khi giao tài sản chủ sở hữu không biết bị lừa dối. Về mặt chủ quan thì người phạm tội nhận thức được đó là thông tin giả nhưng mong người khác tin đó là sự thật, đây là hành động có mục đích của người phạm tội Ví dụ: A dùng thông tin giả để lừa dối B trúng thưởng chiếc xe máy SH và bảo chị B đưa 20 triệu để làm thủ tục, khi nào có xe sẽ hoàn trả. Chị B tin tưởng và đưa A 20 triệu. Như vậy trong trường hợp này A đã dùng những lời nói để lừa dối B, khiến cho B tin những lời A nói là thật.
Lưu ý: – đôi khi tội phạm dùng thủ đoạn gian dối nhưng không bị xét xử về tội theo Điều 174 này mà bị xét xử theo tội khác. Ví dụ: hành vi lừa dối cân, đong, đo thiếu trong bán hàng sẽ cấu thành tội lừa dối khách hàng.
– Một người thực hiện hành vi gian dối nhưng chủ sở hữu phát hiện và không giao tài sản, sau đó người này dùng vũ lực để cướp tài sản. Trường hợp này sẽ không cấu thành tội này. Ví dụ: A dùng thủ đoạn gian dối lừa B chiếc vòng, sau đó B phát hiện và không đưa, A dùng vũ lực đánh B để cướp. Hành vi của A sẽ cấu thành tội danh khác chứ không phải tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nữa.
Hành vi chiếm đoạt: là hành vi cố ý dịch chuyển một cách trái phép tài sản của người khác thành tài sản của mình. Đó là hành vi làm cho chủ sở hữu mất khả năng thực tế thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình. Hành vi chiếm đoạt của tội này có hai hình thức thể hiện cụ thể:
Thứ nhất: nếu tài sản bị chiếm đoạt đang trong sự chiếm hữu của chủ tài sản thì hình thức thể hiện cụ thể của hành vi chiếm đoạt là hành vi nhận tài sản từ người bị lừa dối. Vì đã tin vào thông tin mà người phạm tội cung cấp. Khi người phạm tội nhận được tài sản cũng là lúc tội phạm hoàn thành. Ví dụ: A là chủ sở hữu của chiếc xe máy. Khi đi trên đường B xin đi nhờ, đi được một đoạn, B nói với A là mượn xe để quay lại lấy chiếc balo bỏ quên, A tưởng thật và đưa xe, sau đó B chiếm đoạt xe. Trong tình huống tài sản bị chiếm đoạt đang trong sự chiếm hữu của chủ tài sản, cụ thể là A
Thứ hai: nếu tài sản bị chiếm đoạt đang trong sự chiếm hữu của người phạm tội thì hình thức thể hiện của hành vi chiếm đoạt là hành vi giữ lại tài sản đáng lẽ phải giao cho người bị lừa dối. Vì đã tin tưởng mà nhận nhầm, nhận thiếu, không nhận tài sản từ người phạm tội. Tội phạm hoàn thành tại thời điểm chủ sở hữu nhận nhầm, không nhận, nhận thiếu tài sản. Ví dụ: A là nhân viên giao hàng của B. Một hôm A nhận việc từ B là giao một chuyến hàng với tổng tiền hàng là 50 triệu. Sau khi giao xong A đã lợi dụng khả năng ăn nói của mình nói chuyện với B, trong lúc mải nói chuyện và trả lời câu hỏi của A, B đã nhận tiền hàng và kí vào xác nhận trả tiền hàng A đưa. Một lúc sau B đếm lại mới biết A đã chiếm đoạt của mình 10 triệu. Trong tình huống này tài sản bị chiếm đoạt đang trong sự chiếm hữu của người phạm tội là A
Hậu quả thiệt hại và mối quan hệ nhân quả
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội có CTTP vật chất, nên dấu hiệu hậu quả có quy định trong CTTP. Hậu quả của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là thiệt hại về tài sản cụ thể bị chiếm đoạt. Khoản 1 Điều 174 quy định: “… trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây…”. Theo đó nếu tài sản chiếm đoạt trên 2 triệu sẽ cấu thành tội này, còn nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới 2 triệu ta còn phải căn cứ vào quy định tại các điểm a, b, c, d của khoản 1 Điều 174. Ngoài hậu quả là giá trị tài sản bị chiếm đoạt thì hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản còn gây hậu quả xấu cho xã hội, cho quan hệ sở hữu và an ninh, trật tự đất nước.
Cũng như những tội có cấu thành vật chất khác, hậu quả và hành vi khách quan của tội phạm có mối quan hệ nhân quả với nhau. Hậu quả thiệt hại về tài sản phải được xuất phát từ hành vi lừa dối. Nếu việc thiệt hại về tài sản từ nguyên nhân khác thì sẽ dựa vào những dấu hiệu khách quan để xác định xem có dấu hiệu của tội phạm không và được pháp luật điều chỉnh như thế nào.
Chủ thể của tội phạm
Chủ thể là một trong bốn dấu hiệu của CTTP. Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể, nhưng không phải ai cũng có thể trở thành chủ thể của tội phạm khi thực hiện hành vi được quy định trong luật hình sự, mà những người đó phải còn sống, có lỗi, và đạt độ tuổi luật định. Như vậy chủ thể của tội phạm phải là người có năng lực lỗi và đạt độ tuổi chịu TNHS. Người thỏa mãn hai điều kiện trên được coi là người có NLTNHS. Trong đó năng lực lỗi là năng lực nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi và năng lực điều khiển hành vi. Từ đó giáo trình luật hình sự Việt Nam của trường đại học Luật Hà Nội đã đưa ra định nghĩa chủ thể của tội phạm: “chủ thể của tội phạm là người có NLTNHS bao gồm năng lực nhận thức, năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội và đạt độ tuổi chịu TNHS theo luật định khi thực hiện hành vi phạm tội”. Sở dĩ luật hình sự quy định chủ thể của tội phải là người có NLTNHS vì những người đó khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội họ nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm, sẽ gây ảnh hưởng xấu đến xã hội những họ vẫn thực hiện và mong muốn hậu quả xấu đó xảy ra.
Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chủ thể thường, tức là những người có NLTNHS, đạt độ tuổi luật định. Theo khoản 1 Điều 12 BLHS: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm”, như vậy ta có thể thấy những người từ đủ 16 tuổi trở lên, có NLTNHS đầy đủ thì đều có khả năng trở thành chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ví dụ: M(17 tuổi) lừa đảo chiếm đoạt tài sản của A 5 triệu đồng, do vậy căn cứ theo quy định của pháp luật, M hoàn toàn có thể trở thành chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Do chủ thể của tội này là chủ thể thường nên không có trường hợp ngoại lệ. Và cũng theo quy định của Điều 12 thì những người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi cũng không thể là chủ thể của tội này, vấn đề truy cứu TNHS cũng không đặt ra với người không có NLHVDS. Ví dụ: A (15 tuổi ) tuổi dùng thủ đoạn gian dối lừa đảo chiếm đoạt của anh B 3 triệu đồng. Nhưng do A mới 15 tuổi nên sẽ không phải là chủ thể của tội này.
Khi xác định chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng cần chú ý đến các yếu tố nhân thân của người phạm tội, điều này có ý nghĩa trong việc xác định mức phạt cũng như là có các biện pháp phòng chống hiệu quả.
Mặt chủ quan của tội phạm
Tội phạm là thể thống nhất giữa mặt khách quan và chủ quan. Mặt khách quan là những biểu hiện ra bên ngoài, còn mặt chủ quan là những hoạt động tâm lí bên trong. Cũng giống như các yếu tố khác, mặt chủ quan của tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng, bởi vì hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội luôn gắn liền với các biểu hiện ra bên ngoài. Nghiên cứu mặt chủ quan của tội phạm, phải nghiên cứu dấu hiệu “lỗi”. Lỗi là dấu hiệu không thể thiếu trong CTTP . Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội có lỗi cố ý nên ngoài dấu hiệu lỗi, thì mặt chủ quan của tội phạm còn thể hiện mục đích và động cơ phạm tội.
Dấu hiệu lỗi
Một trong những nguyên tắc đặc thù của luật hình sự là “nguyên tắc có lỗi”. Một người chỉ bị coi là có lỗi trong trường hợp có khả năng xử sự phù hợp với đòi hỏi của xã hội nhưng chủ thể đó đã không lựa chọn khả năng này. Căn cứ vào mặt hình thức của lỗi giáo trình luật hình sự Việt Nam của trường đại học Luật Hà Nội đã đưa ra định nghĩa của lỗi: “lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội của mình và dối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý” . Lỗi được chia thành hai loại – cố ý và vô ý. Lỗi cố ý gồm, cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp. Lỗi vô ý gồm, vô ý vì quá tự tin và vô ý vì cẩu thả. Ví dụ: Tội cướp tài sản là lỗi cố ý; tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản có lỗi vô ý.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tài Điều 174 của BLHS, tuy điều luật không nêu rõ dấu hiệu lỗi của người phạm tội. Nhưng xét theo bản chất và tính chất của hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thì tội này có lỗi “cố ý trực tiếp”, nghĩa là, người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Lỗi cố ý trực tiếp của tội này được thể hiện dưới hai yếu tố lí trí và ý chí.
Về lí trí: Người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhận thức rõ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của mình và thấy trước hậu quả thiệt hại của hành vi đó.
Về ý chí: Người phạm tội mong muốn hậu quả thiệt hại phát sinh. Đó là mong muốn chiếm đoạt được tài sản của người khác
Dấu hiệu động cơ, mục đích
“Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội cố ý”. Động cơ phạm tội có thể được mô tả trong CTTP hoặc không bởi vì nó không có ý nghĩa quyết định đến tính chất nguy hiểm của tội phạm. Tuy nhiên ở các tội cố lỗi cố ý thì đều có dấu hiệu động cơ. Ví dụ, động cơ của tội tội sử dụng trái phép tài sản người phạm tội là vụ lợi…Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản người phạm tội thực hiện có thể vì nhiều động cơ khác nhau. Ví dụ: vì động cơ tham lam, sở thích, muốn có tiền để tiêu xài…nhưng tựu chung lại là vì động cơ tư lợi.
“Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội cố ý(trực tiếp)”. Mục đích bao giờ cũng có trước khi thực hiện hành vi phạm tội, và ở tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng vậy. Mục đích của tội này là mong muốn chiếm đoạt được tài sản của người khác. Ví dụ: chị A thấy em gái của mình có một chiếc vòng tay rất đẹp và chị rất thích. Xuất phát từ mục đích muốn chiếm đoạt chiếc vòng tay đó của em gái mình nên chị đã mượn và lừa là làm mất chiếc vòng đó, nhưng thực ra chị đã giấu chiếc vòng đó đi.
Khung hình phạt
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định năm mức hình phạt chính và một hình phạt bổ sung. Mức phạt thấp nhất cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Mức phạt cao nhất lên đến 20 năm tù hoặc chung thân. Ngoài ra, người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản sẽ bị phạt tiền từ 10 triệu cho đến 100 triệu. Có một lưu ý là tội này không quy định hình phạt tử hình

Đánh giá tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của BLHS
Nhận xét và nêu kiến nghị hoàn thiện
Điều luật đã quy định chi tiết các dấu hiệu pháp lí về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Đã xây dựng khung hình phạt với các tình tiết tương đối phù hợp. Có nhiều đóng góp trong hoạt động răn đe, trừng trị tội phạm. Tuy nhiên việc quy định tội danh này vẫn còn một số hạn chế như: thủ đoạn gian dối còn dễ nhầm lẫn với các tội khác cùng chương, việc quy định truy cứu TNHS của pháp nhân còn nhiều bất cập, quy định về tịch thu tài sản lừa đảo chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
Đề hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật. Các nhà lập pháp phải nghiên cứu hoàn thiện điều luật này. Cần nghiên cứu quy định thêm hình phạt tử hình nhằm tăng tính răn đe triệt để do hiện nay số tiền lừa đảo ngày càng lớn, có những vụ lên đến hàng trăm tỉ đồng. Quy định chi tiết sự khác biệt về thủ đoạn “gian dối” giữa tội này với một số tội khác cũng có thủ đoạn này. Hoàn thiện hơn các dấu hiệu về lửa đảo công nghệ cao như: lừa đảo trên internet, lừa đảo thông qua ngân hàng tín dụng…
Ý nghĩa của tội danh
Xuyên suốt các BLHS qua từng thời kỳ, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản luôn là một tội danh được quan tâm hàng đầu và được quy định trong BLHS. Việc quy định tội danh này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Thứ nhất, việc quy định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là cơ sở pháp lý trong việc giải quyết các vụ án liên quan đến tội danh. Qua đó giúp cho công tác phòng và chống tội phạm được thuận tiện hơn, đảm bảo công bằng, không bỏ sót tội phạm. Thứ hai, việc quy định tội danh còn lại cơ sở để xác giới hạn phải chịu TNHS. Điều 174 đã quy định chi tiết các dấu hiệu pháp lí của tội danh và khung hình phát ở 05 khoản, đảm bảo cung cấp đủ lượng tri thức, cơ sở pháp lý cho hoạt động tố tụng. Cuối cùng, điều luật mang ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, nhờ có điều luật mà quyền và lợi ích hợp pháp của nạn nhân được bảo vệ vững chắc hơn.
KẾT LUẬN
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một tội phổ biến ở nước ta, với những diễn biến nghiêm trọng. Nghiên cứu dấu hiệu pháp lí của điều luật giúp ta có cái nhìn rõ hơn về tội danh này qua đó giúp ta có nhận thức và áp dụng điều luật đúng đắn,góp phần nâng cao trách nhiệm của mọi người trong hoạt đồng phòng, chống tội phạm. Xây dựng một xã hội thực sự ổn định, văn minh, nơi mà tội phạm không có điều kiện phát triển
PHỤ LỤC
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong số những tội phạm phổ biến trong nhóm tội xâm phạm đến quyền sở hữu đã được quy định cụ thể trong BLHS. Với sự phát triển của công nghệ thông tin và lượng người dùng các trang mạng xã hội tăng nhanh như hiện nay thì tình trạng lừa đảo chiếm đoạt tài sản diễn ra rất phổ biến và ngày càng tinh vi. Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi của tội phạm dùng thủ đoạn gian dối để chủ sở hữu, người quản lý tài sản tin và giao tài sản cho tội phạm để chiếm đoạt tài sản đó. Và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 của BLHS năm 2015 với 05 khoản.
Khung hình phạt của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Căn cứ vào Điều 174 BLHS các khung hình phạt được tài áp dụng cho tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được chia thành các mức như sau:
Thứ nhất: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm
Thứ hai: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm
Thứ ba: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm
Thứ tư: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân
Về hình phạt bổ sung: người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Các mức phạt trên còn căn cứ vào đặc điểm nhân thân của người phạm tội, quy định chi tiết tại các điểm trong khoản 1,2,3,4 của Điều 174. các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng, giảm nhẹ.
Một số lưu ý khi áp dụng và xét xử các vụ án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
– Việc đánh giá chính xác giá trị tài sản bị chiếm đoạt có ý nghĩa quan trọng để xác định trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo. Theo quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 thì giá trị tài sản bị chiếm đoạt là một trong những tình tiết định khung, việc xác định không đúng giá trị tài sản bị chiếm đoạt sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự, không xác định được hình phạt phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
– Không để nhầm lẫn giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với các tội danh khác có cùng thủ đoạn “gian dối”. Bởi việc này đã dẫn đến hệ quả truy tố, xét xử không đúng với bản chất của hành vi phạm tội và là một trong những nguyên nhân khiến bản án bị hủy hoặc trả hồ sơ điều tra bổ sung.
Trên đây là phần giải đáp thắc mắc của chúng tôi về vấn đề: Dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Nếu trong quá trình giải quyết còn gì thắc mắc bạn có thể liên hệ chúng tôi qua tổng đài tư vấn luật qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy để được giải đáp.
Trân trọng./.