Xây dựng một tình huống về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo

Xây dựng một tình huống về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo

Trong cuộc sống của chúng ta, các giao dịch dân sự đã xuất hiện từ sớm để đảm bảo cho các nhu cầu thiết yếu của con người. Ngày nay, xã hội càng phát triển, các giao dịch đó trở nên rất phổ biến, đa dạng và có số lượng vô cùng lớn. Các giao dịch dân sự được hình thành dựa trên cơ sở tự do ý chí của mỗi chủ thể khi họ tự nguyện tham gia giao dịch vì lợi ích, nhu cầu của mình.

Tuy nhiên trong một xã hội văn minh, các giao dịch này không thể được tùy tiện thiết lập mà vẫn cần phải có một hành lang pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên chủ thể tham gia giao dịch cũng như đảm bảo trật tự chung nhất định của xã hội. Chính vì lẽ đó mà ở Việt Nam, các quy phạm pháp luật đã được ban hành rõ trong các văn bản pháp luật để điều chỉnh các quan hệ giao dịch dân sự, hướng các hoạt động này theo một chuẩn mực phù hợp với điều kiện ở nước ta hiện nay.

Giao dịch dân sự tuy được thực hiện dựa trên cơ sở tự do ý chí, nguyện vọng, mong muốn của các chủ thể khi xác lập giao dịch, nhưng vì yêu cầu của pháp luật mà không phải bất cứ giao dịch nào cũng được thực hiện. Trên thực tế sẽ có một số giao dịch không được pháp luật thừa nhận trên hay nói cách khác là bị vô hiệu. Qua bài phân tích sau đây tổng đài Luật Quang Huy chúng tôi xin giải quyết về vấn đề: xây dựng một tình huống về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo

  • Chỉ rõ giao dịch nào là giả tạo, giao dịch nào là thực chất.
  • Giải quyết hậu quả pháp lý của hai giao dịch trên theo quy định của pháp luật hiện hành
  • So sánh quy định của BLDS 2005 và BLDS 2015 về những nội dung có liên quan đến giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo.

Danh mục tài liệu tham khảo

    • Giáo trình luật dân sự Việt Nam/ Trường Đại học Luật Hà Nội/ Nxb Lao động.
    • Bộ luật dân sự Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005)/Nxb Lao động.
    • Bộ luật dân sự Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2016)/ Nxb Lao động.
    • Bình luận khoa học Bộ luật dân sự Việt Nam.
    • Hướng dẫn môn học Luật dân sự, Hà Nội, Tư pháp, 2015.

Xây dựng tình huống giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo

Anh Nguyễn Văn A và Nguyễn Văn B là hai anh em ruột, sau khi tốt nghiệp đại học, hai anh em đã cùng nhau thành lập công ty riêng để cùng nhau làm ăn. Do làm ăn phát đạt mà đến năm 2008, hai anh em đã có một khoản tiền lớn. A và B đã quyết định mua hai căn nhà liền kề nhau tại khu vực Hoàng Mai, Hà Nội (lúc mua nhà cả hai anh em chưa lập gia đình).

Năm 2010, A có bạn gái đang học tập và sinh sống ở nước ngoài, A muốn lập nghiệp và cùng bạn gái định cư tại nước ngoài nên muốn bán căn nhà đang ở để làm vốn. Anh B muốn mua lại căn nhà của A. Anh A quyết định bán nhà cho em trai với giá 2,5 tỷ đồng (thỏa thuận miệng).

Tuy nhiên để tránh một số thủ tục rườm rà, tránh đóng trước bạ mà cả hai đã nhất trí là: anh A viết giấy cho tặng căn nhà cho B (hợp đồng cho tặng giả sử đã thực hiện hoàn tất thủ tục công chứng, chứng thực) và coi như giao dịch này là giao dịch cho tặng tài sản (dù anh B đã trả đủ 2,5 tỷ cho anh A và đã được anh A hứa trước là sẽ giao nhà khi B trả đủ tiền).

Tuy nhiên anh A không thực hiện giao nhà cho B đúng thời hạn mà cả hai đã bàn bạc từ trước, hai bên xảy ra tranh chấp. B có đâm đơn ra Tòa nhờ Tòa án giải quyết.

nội dung có liên quan đến giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo

Giải quyết tình huống

Cơ sở pháp lý

Trước hết, ta đi vào tìm hiểu thế nào là một giao dịch dân sự. Theo điều 121 BLDS 2005 thì: Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.

Như vậy dựa trên quy định của luật, ta có thể xác định được giao dịch dân sự là một sự kiện pháp lý làm phát sinh ra hậu quả pháp lý, hậu quả của một giao dịch dân sự sẽ là làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền quyền, nghĩa vụ dân sự của chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự. Giao dịch dân sự được hiểu đơn giản hơn là một hành vi có ý thức của chủ thể nhằm thảo mãn một nhu cầu, nguyện vọng nào đó. Trong một giao dịch dân sự có ý chí và thể hiện ý chí của chủ thể tham gia giao dịch.

Giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam được chia làm hai loại là: hợp đồng dân sự và hành vi pháp lý đơn phương. Tuy là giao dịch ở loại nào thì giao dịch dân sự cũng phải thể hiện được ý chí của chủ thể nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.

Như đã nói ở trên, vì một số lý do về trật tự đời sống, đạo đức xã hội mà không phải giao dịch dân sự nào cũng được pháp luật Việt Nam thừa nhận. Để giao dịch có giá trị pháp lý, được Nhà nước và pháp luật công nhận và bảo vệ thì giao dịch dân sự phải đáp ứng những yêu cầu luật định theo Điều 122 BLDS 2005: Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự

1,Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây

a,Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;

b,Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái với đạo đức xã hội;

c,Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.

2.Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định.

Căn cứ vào nội dung điều luật trên, chúng ta thấy rằng để đảm bảo cho một giao dịch được thực hiện hợp pháp thì phải đảm bảo đầy đủ những yêu cầu của BLDS 2005.

-Trong đó, về yêu cầu “người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự”, chữ “người” được Bộ luật sử dụng theo nghĩa rộng không chỉ riêng các cá nhân mà các pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác cũng là chủ thể tham gia giao dịch dân sự và đều phải đáp ứng yêu cầu về năng lực hành vi dân sự đối với từng loại theo quy định của pháp luật.

-Về yêu cầu nội dung và mục đích của giao dịch không trái pháp luật, đạo đức xã hội: đây là một yêu cầu thiết thực và vô cùng quan trọng. Xã hội dù có phát triển đến đâu, tự do ý chí của các chủ thể khi tham gi pháp luật dân sự được bảo đảm đến mức nào cũng không được vượt quá giới hạn pháp luật, giới hạn đạo đức của xã hội.

Luật dân sự Việt Nam quy định các giao dịch dân sự về cả mục đích và nội dung đều không được vi phạm vào điều cấm của pháp luật và phải phù hợp với yêu cầu chuẩn mực đạo đức xã hội. Ở đây ta hiểu, mục đích của giao dịch dân sự là những lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó ở đây là mục đích thực tế; còn nội dung giao dịch là tổng hợp các điều khoản mà các bên tham gia đã cam kết, thỏa thuận trong giao dịch.

Những điều khoản này xác định quyền, nghĩa vụ của các bên phát sinh từ giao dịch. Mục đích và nội dung của giao dịch có mối liên hệ chặt chẽ vớ nhau tuy nhiên nó không đồng nhất. Trong thực tế trong ta sẽ thấy có một số trường hợp nội dung giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật nhưng mục đích của chủ thể lại vi phạm hoặc ngược lại. Tuy nhiên pháp luật Việt Nam yêu cầu cả nội dung và mục đích của giao dịch đều phải tuân thủ pháp luật và không trái với đạo đức xã hội.

-Về yêu cầu người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện: sự tự nguyện của một bên hay sự tự nguyện của các bên tham gia giao dịch dân sự là một nguyên tắc cơ bản của luật dân sự Việt Nam. Luật dân sự là những quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ nhân thân quan hệ tài sản trong quan hệ dân sự.

Khác với luật hình sự, luật hành chính, luật dân sự điều chỉnh những quan hệ này trên những phương pháp nhất định nhằm đảm bảo cho ba lợi ích nhà nước, xã hội và cá nhân. Trong pháp luật dân sự quyền tự do tự chủ của các cá nhân, tổ chức được đảm bảo ở mức cao nhất (Điều 4 BLDS 2005). Đây là một trong những điểm tiến bộ bảo đảm pháp chế ở Việt Nam chúng ta.

Trong quan hệ dân sự, các bên được hoàn toàn tự nguyện, bình đẳng, không ai được áp đặt ý chí của mình lên người khác, không ai được cấm đoán, cưỡng ép, đe dọa hay lừa dối người khác.

-Về yêu cầu hình thức giao dịch phù hợp với quy định của luật: Do hình thức giao dịch là phương tiện để thể hiện nội dung của giao dịch, thông qua phương tiện này mà bên đối tác cũng như người thứ ba có thể biết được nội dung của giao dịch đã xác lập. Giao dịch dân sự có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.

Chủ thể tham gia giao dịch có quyền lựa chọn những hình thức mà họ cho là phù hợp. Nhưng trong một số trường hợp nhất định mà vì lợi ích của nhà nước, xã hội và cá nhân mà pháp luật có yêu cầu hình thức buộc các chủ thể phải tuân thủ theo (yêu cầu phải lập thành văn bản, phải có chứng nhận, chứng thực, đăng kí, xin phép…)

Giao dịch dân sự vô hiệu: Điều 127 BLDS 2005 quy định:

Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu.

Điều 127 của BLDS 2005 không định nghĩa cụ thể thế nào là một giao dịch dân sự vô hiệu, tuy nhiên có thể suy từ điều luật ra rằng những giao dịch dân sự không tuân thủ một trong các điều kiện đã được liệt kê tại Điều 122 BLDS 2005 thì sẽ vô hiệu

Giao dịch dân sự vô hiệu được chia thành hai nhóm chính: vô hiệu tuyệt đối và vô hiệu tương đối. Trong đó, giao dịch được xác lập một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác hoặc nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với người thứ ba là giao dịch dân sự vô hiệu được xếp vào nhóm vô hiệu tuyệt đối.

Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo được quy định tại Điều 129 BLDS 2005:

Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này.

Xây dựng một tình huống về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo

Trong trường hợp xác lập giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu.

Pháp luật quy định một giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo có thể rơi vào hai trường hợp hoặc là chủ thể xác lập giao dịch muốn che giấu một giao dịch thực chất bên trong hoặc là muốn trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba. Ở mỗi trường hợp mà pháp luật quy định một hoặc một số hậu quả pháp lý tương đương để giải quyết.

Giải quyết tình huống theo yêu cầu đề bài

Tình huống nêu trên thuộc loại giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo mà chủ thể xác lập một giao dịch tặng cho tài sản nhằm che giấu một giao dịnh thực sự là giao dịch mua-bán tài sản bên trong.

b.1, Giao dịch nào là giả tạo? Giao dịch nào là thực chất?

-Giao dịch giả tạo là giao dịch được biểu hiện ra bên ngoài nhưng nó lại không biểu đạt đúng ý chí, mong muốn, nguyện vọng của hai bên chủ thể khi quyết định xác lập giao dịch với nhau. Thông thường giao dịch giả tạo có những ưu điểm, thuận lợi cho hai bên chủ thể khi thực hiện giao dịch.

Trong tình huống nêu trên, giao dịch A tặng cho tài sản (căn nhà của A tại khu Hoàng Mai, Hà Nội) cho B là giao dịch dân sự giả tạo. Xác định được như vậy bởi lẽ, anh A muốn ra nước ngoài sinh sống và lập nghiệp cùng bạn gái, anh A cần một số vốn thêm nên mới ra quyết định bán căn nhà. Khi quyết định bán của anh A được thể hiện ra bên ngoài, anh B muốn mua.

Cả hai đã nhất trí với nhau về giá tiền là 2,5 tỷ đồng. Anh B đã thực hiện trả đủ 2,5 tỷ đồng cho anh A và anh A đã thỏa thuận miệng sẽ giao nhà cho anh B khi A nhận đủ số tiền này. Như vậy, rõ ràng việc A cho tặng B căn nhà là không đúng với thực tế và giao dịch cho tặng tài sản này là giả tạo

-Giao dịch thực chất là giao dịch được xác lập dựa trên cơ sở tự do ý chỉ của các bên chủ thể, giao dịch này biểu đạt được đúng ý chí, nguyện vọng của các bên chủ thể khi tham gia xác lập giao dịch. Giao dịch thực chất được các chủ thể tham gia giao dịch thực hiện trên thực tế. Tuy nhiên vì một số lý do nhất định mà giao dịch thực chất bị các chủ thể che giấu đi và thể hiện ra bên ngoài bằng một giao dịch khác.

Trong trường hợp của AB, thực tế cho thấy B đã trả đủ số tiền mua nhà mà cả hai đã nhất trí là 2,5 tỷ đồng và được A hứa sẽ giao nhà. Như vậy, giao dịch thực chất ở đây là giao dịch mua bán tài sản trong đó A là người bán, B là người mua.

b.2, Giải quyết hậu quả pháp lý của hai giao dịch theo quy định của pháp luật hiện hành:

Như đã xác định ở trên, giao dịch tặng cho tài sản là giao định giả tạo, giao dịch mua bán tài sản là giao dịch thực chất. Đây là trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối và phải được giải quyết hậu quả pháp lý theo quy định của pháp luật hiện hành.

Điều 129 BLDS 2005 quy định đối với giao dịch dân sự được xác lập giả tạo nhằm che giấu một một giao dịch khác thì: “giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này…”

Điều 137 BLDS 2005 quy định: “Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu

1.Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.

Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.”

Áp dụng vào trường hợp của anh A anh B: Giao dịch tặng cho tài sản là căn nhà của A là giao dịch giả tạo nên giao dịch này đương nhiên vô hiệu đồng nghĩa với việc không phát sinh, thay đổi chấm dứt nghĩa vụ dân sự của A và B trong giao dịch này. Nói cách khác, A không có nghĩa vụ phải trao tặng nhà cho B và B cũng không được hưởng căn nhà này một cách miễn phí.

Giao dịch mua- bán tài sản là giao dịch thực chất, tuy nhiên trong trường hợp này tài sản được đem ra giao dịch là một căn nhà nên giao dịch mua-bán này theo quy định của pháp luật cần phải đảm bảo cả yêu cầu về hình thức của giao dịch.

Như vậy giao dịch A bán nhà cho B tuy đáp ứng được các yêu cầu về điều kiện chủ thể, sự hoàn toàn tự nguyện của hai bên chủ thể, nội dung mục đích không trái với quy định của pháp luật nhưng do không đảm bảo về mặt hình thức (mua bán nhà không thể thực hiện thông qua hợp đồng bằng miệng) mà pháp luật không thừa nhận giao dịch này có hiệu lực trên thực tế.

Như vậy A và B không có phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự với nhau (A không có nghĩa vụ trao nhà cho B theo thỏa thuận, không có quyền nhận tiền từ B; B không có nghĩa vụ trả 2,5 tỷ cho A và không có quyền nhận nhà), cả hai sẽ phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, trả lại cho nhau những gì đã nhận (A trả lại cho B 2,5 tỷ đồng).

Nếu muốn việc mua-bán tài sản có hiệu lực thực tế, A và B sẽ phải lập một hợp đồng mua-bán theo đúng trình tự, thủ tục của pháp luật và phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trước Nhà nước. Như vậy khi hợp đồng mua-bán tài sản có hiệu lực thì giữa A và B mới phát sinh quyền và nghĩa vụ dan sự với nhau.

b.3, So sánh quy định của BLDS 2005 và NLDS 2015 về những nội dung có liên quan đến giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo:

Về cơ bản, BLDS 2015 kế thừa và phát huy tư tưởng của BLDS 2005 về những nội dung có liên quan đến giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo. Một số những đổi mới của BLDS 2015 như sau:

-Về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự: BLDS 2015 quy định chi tiết và cụ thể hơn, tại điểm a khoản 1 Điều 117 như sau: “chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập” .

Đây là một điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005. Nếu như BLDS 2005 chỉ yêu cầu chủ thể tham gia giao dịch dân sự là người có “năng lực hành vi dân sự” thì điểm a khoản 1 Điều 117 BLDS mới có bổ sung thêm, cụ thể hóa những đối tượng là chủ thể của giao dịch dân sự.

Điều 117 gọi là “chủ thể” để bao hàm được tất cả các đối tượng có thể tham gia giao dịch dân sự là cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình… chứ không dùng “người” như BLDS 2005. Bên cạnh đó, BLDS 2015 yêu cầu những chủ thể này phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, quy định như vậy rõ ràng là cụ thể, chi tiết hơn so với Bộ luật 2005.

Có thể thấy trên thực tế, không phải ai đủ tuổi thành niên và có đầy đủ năng lực pháp luật, năng lực hành vi mới được xác lập các giao dịch dân sự, mà ngay cả những người chưa thành niên, chưa có đầy đủ năng lực hành vi dân sự vẫn được xác lập các giao dịch dân sự theo quy định của luật, tuy nhiên những chủ thể này vẫn phải đảm bảo là có đủ năng lực hành vi phù hợp với giao dịch được xác lập.

-Về Giao dịch dân sự vô hiệu: BLDS 2015 có quy định về giao dịch dân sự vô hiệu tại Điều 122: “Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác”. Như vậy so với BLDS 2005, Bộ luật mới đã bổ sung điều khoản loại trừ “trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác”.

-Về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu: BLDS 2015 đã có bổ sung thêm một số quy định cụ thể, rõ ràng, triệt để hơn Bộ luật 2005. Điều 131 BLDS 2015 quy định rõ hơn ở khoản 2, bổ sung thêm các khoản 3,5; cụ thể như sau:

Khoản 2 Điều 131 cũng yêu cầu khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên cũng vẫn phải “khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả nhau những gì đã nhận”, nhưng trong trường hợp không thể hoàn trả bằng hiện vật thì phải “trị giá thành tiền để hoàn trả”. So với quy định tại BLDS 20015, việc “trị giá thành tiền để hoàn trả” được bổ sung thêm có ý nghĩa trong việc bảo đảm quyền và lợi ích của các bên chủ thể, tránh tình trạng tranh chấp khi BLDS 2005 chỉ yêu cầu “hoàn trả bằng tiền”-đây có thể là một lỗ hổng để các chủ thể lợi dụng.

BLDS 2015 thêm mới 2 khoản, điều chỉnh được rộng hơn các hậu quả mà pháp luật dự định có thể xảy ra trong một giao dịch dân sự vô hiệu đó là quy định về hoa lợi, lợi tức thu được của bên ngay tình (khoản 3 Điều 131); về giải quyết hậu quả giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân (khoản 5 Điều 131).

Kết luận

Những quy định chặt chẽ của pháp luật dân sự và giao dịch dân sự quả thực đã xây dựng nên một hành lang pháp lý vững chắc, đảm bảo cho các quan hệ giao dịch được thực hiện trong vòng trật tự của pháp luật, của xã hội. Việc quy định những giao dịch dân sự nào là vô hiệu và quy định hậu quả pháp lý của nó là một biện pháp góp phần xây dựng một môi trường giao dịch cũng như góp phần bảo vệ cho quyền lợi cho Nhà nước, xã hội và cho chính các chủ thể tham gia giao dịch.


Trên đây là phần giải đáp thắc mắc của chúng tôi về vấn đề: nội dung có liên quan đến giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo. Nếu trong quá trình giải quyết còn gì thắc mắc bạn có thể liên hệ chúng tôi qua tổng đài tư vấn luật qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy để được giải đáp.

Trân trọng./.

phone-call

GỌI HỎI ĐÁP MIỄN PHÍ

Scroll to Top