Hoạt động kinh doanh chứng khoán là một hoạt động thương mại cũng giống như các hoạt động kinh doanh khác nhằm mục đích kiếm lời hoặc nhằm thỏa mãn những mục đích riêng nào đó của các nhà đầu tư. Kinh doanh chứng khoán có thể nói là một ngành kinh doanh có lợi nhuận lớn và độ rủi ro cao, vì vậy đây sẽ là một trở ngại rất lớn khiến các nhà đầu tư trăn trở khi đầu tư vào chứng khoán. Chính vì thế, việc nghiên cứu những biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán là vô cùng quan trọng và cần thiết, nó giúp các nhà đầu tư mạnh dạn trong lĩnh vực kinh doanh này, giúp phát triển lành mạnh thị trường và nâng cao nền kinh tế của đất nước. Nhận thấy đây là một vấn đề vô cùng quan trọng và thú vị, chính vì vậy em xin chọn đề tài: “Phân tích những biện pháp cơ bản để phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán.”
Danh mục tài liệu tham khảo:
- Giáo trình môn Luật chứng khoán trường Đại học Luật Hà Nội
- Luật chứng khoán
Khái niệm và đặc điểm của hoạt động kinh doanh chứng khoán
Mọi người cũng xem:
Khái niệm
Căn cứ theo Khoản 19 Điều 6 Luật chứng khoán 2006 sửa đổi 2010:
“Kinh doanh chứng khoán là việc thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, lưu ký chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư chứng khoán”
Từ quy định trên, ta nhận thấy khái niệm hoạt động kinh doanh chứng khoán ở Việt Nam khá rộng và hoàn chỉnh. Nói một cách khác, kinh doanh chứng khoán là loại hình hoạt động thương mại đặc biệt mà ở đó các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ và các chủ thể được phép kinh doanh chứng khoán tiến hành các nghiệp vụ về chứng khoán cho chính mình hoặc cho khách hàng vì mục tiêu lợi nhuận tối đa.
Đặc điểm
Thứ nhất, kinh doanh chứng khoán là nghề thương mại đặc thù có liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích của các nhà đầu tư là công chúng và các doanh nghiệp. Việc lựa chọn hình thức kinh doanh của doanh nghiệp nhằm sinh lợi là một công việc rất quan trọng, nó ảnh hưởng đến sự phát triển và tồn tại của doanh nghiệp. Hoạt động kinh doanh chứng khoán lại là hoạt động có sức hút lớn đối với các doanh nghiệp vì có khả năng sinh lời cao. Tuy nhiên, hoạt động này cũng mang lại rủi ro khá lớn dẫn đến sự phá sản của doanh nghiệp. Vì thế, những chủ thể muốn thực hiện nghề nghiệp này nhất thiết phải thỏa mãn một số điều kiện rất khắt khe về tài chính, thậm chí kể cả những điều kiện về vật chất, kỹ thuật để thực hiện hoạt động kinh doanh chứng khoán. Việc quy định các điều kiện thành lập và hoạt động kinh doanh chứng khoán chính là nhằm đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động an toàn, hiệu quả và đặc biệt là bảo đảm cho quyền lợi chính đáng của các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán.
Thứ hai, đối tượng của hoạt động kinh doanh chứng khoán chính là các chứng khoán – giá trị động sản và các dịch vụ về chứng khoán. Chứng khoán là một phương tiện có thể thỏa thuận và có thể thay thế được, đại diện cho một giá trị tài chính. Chứng khoán gồm các loại: chứng khoán cổ phần, chứng khoán nợ, và các chứng khoán phái sinh. Chứng khoán được thể hiện bằng hình thức chứng chỉ, bút toán ghi số hoặc dữ liệu điện tử. Các chứng khoán là những hàng hóa và dịch vụ đặc biệt được giao dịch trên thị trường đặc biệt – thị trường chứng khoán và các giao dịch đó phải tuân thủ quy chế pháp lí đặc biệt do pháp luật về chứng khoán quy định.
Thứ ba, hoạt động kinh doanh chứng khoán phải tuân thủ một số nguyên tắc đặc thù của thị trường chứng khoán, chẳng hạn như nguyên tắc công bằng, công khai, minh bạch và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư. Các quy tắc này có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc xây dựng lòng tin của các nhà đầu tư đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán và đảm bảo quyền lợi cho bản thân họ. Đồng thời, các nguyên tắc này buộc các chủ thể phải nâng cao trách nhiệm khi tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán. Việc thể chế hóa bằng pháp luật những nguyên tắc này là những đảm bảo pháp lí cho sự vận hành an toàn, hiệu quả của thị trường chứng khoán đồng thời bảo vệ một cách hữu hiệu quyền và lợi ích hợp pháp cho các nhà đầu tư tham gia thị trường.
Phân loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán
Mọi người cũng xem:
Trình bày quan điểm của em về vấn đề phân cấp thẩm quyền quản lý nhà nước đối với hoạt động quảng cáo thương mại
Phân tích các quy định pháp luật nhằm hạn chế tình trạng giao dịch nội gián và nêu ý kiến pháp lý thông qua thực tiễn hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam
Phân tích mối quan hệ của công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư với các ngân hàng thương mại trong hoạt động đầu tư
Trong kinh doanh chứng khoán thì có thể chia ra thành 2 loại rủi ro: rủi do hệ thống và rủi ro không hệ thống.
Rủi ro hệ thống
Rủi ro hệ thống là rủi ro tác động chung đến hoạt động của thị trường và bắt nguồn từ các yếu tố vĩ mô, các chủ thể tiến hành hoạt động kinh doanh chứng khoán buộc phải chấp nhận.
Rủi ro chính sách là rủi ro tiêu biểu cho rủi ro hệ thống mà chủ thể hoạt động kinh doanh phải đối mặt. Chính sách tiền tệ có ảnh hưởng không nhỏ tới sự vận hành và biến động của thị trường chứng khoán.
Bên cạnh đó, rủi ro từ các chấn động của thị trường trong và ngoài nước cũng có thể gây ra tổn thất cho các chủ thể hoạt động kinh doanh chứng khoán. Các chấn động của thị trường như:
- Các trào lưu mua bán theo tâm lí đám đông, đầy cảm tính và xúc cảm, làm phá vỡ các quy luật vận động bình thường của thị trường. Ta có thể thấy rõ tác động của các trào lưu này qua diễn biến của thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2007, khi mọi người đổ xô đi mua chứng khoán, chỉ số VN-INDEX liên tục phá vỡ những kỉ lục và đã vượt xa mốc 1000 điểm, vượt xa giá trị thực tế của thị trường.
- Các hoạt động đầu cơ, tung tin đồn thất thiệt gây nhiễm thông tin và tự đánh bóng, thổi giá hoặc thậm chí lừa đảo và thông đồng có tổ chức của một số nhà đầu tư chuyên nghiệp có tiềm lực tài chính và sức mạnh khác dù tạo nên động thái thăng trầm của thị trường để trục lợi.
- Các chấn động thị trường khác từ nước ngoài, tiêu biểu là các cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Nó kéo chỉ số VN-INDEX xuống mức thấp kỉ lục, nhà đầu tư ào ạt rút vốn khỏi thị trường, tính thanh khoản giảm mạnh, rất nhiều công ty chứng khoán làm ăn thua lỗ.
Rủi ro không hệ thống
- Rủi ro từ tính thanh khoản thấp của chứng khoán đầu tư
Tính thanh khoản thấp mà chủ thể kinh doanh chứng khoán đang sở hữu có thể do chứng khoán đó khó và thậm chí không thể bán được hoặc không được phép bán hay chuyển nhượng nhằm thu hồi vốn đầu tư. Hàng hóa thông thường không thể bán được phần nhiều do: chất lượng và tiện ích của hàng hóa không đáp ứng nhu cầu; không phù hợp với gu của người mua; cung vượt quá mức cầu; có hàng hóa khác thay thế tương đương, thậm chí có sức hấp dẫn hơn.
- Rủi ro từ thông tin chứng khoán và thị trường
Một báo cáo tài chính hoặc cáo bạch chưa được kiểm toán, thẩm định bởi các tổ chức độc lập, chuyên nghiệp, có uy tín và trình độ chuyên môn cao; một thông tin đến chậm hoặc bị cắt xén không đầy đủ, không chính xác hoạt động kinh doanh của công ty phát hành cổ phiếu, về môi trường pháp lí và về các nhà đầu tư khác trên cùng sân chơi, hay đơn lẻ là về tình hình thời tiết hay dịch bệnh nào đó…đều trở thành đầu mối trực tiếp gây ra các thiệt hại khôn lường cho nhà đầu tư chứng khoán.
- Rủi ro từ lựa chọn đối nghịch
Lựa chọn đối nghịch là vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra trước khi diễn ra cuộc giao dịch trên thị trường chứng khoán, lựa chọn đối nghịch xuất hiện khi nhà đầu tư không biết thông tin về các loại cổ phiếu của các công ty khác nhau do đó có thể mua phải cổ phiếu của một công ty hoạt động kém, rủi ro cao. Vấn đề lựa chọn đối nghịch cũng xuất hiện trong nhiều hoạt động khác của nền kinh tế. Nói một cách tổng quát, lựa chọn đối nghịch là những quyết định sai lầm của một bên tham gia giao dịch mà nguyên nhân là do các rủi ro về thông tin.
- Rủi ro từ đạo đức
Rủi ro đạo đức cũng là một hậu quả của thông tin không cân xứng trên thị trường. Khác với lựa chọn đối nghịch, rủi ro đạo đức xuất hiện sau cuộc giao dịch khi một bên thực hiện những hành động ẩn giấu và có ảnh hưởng đến lợi ích của phiếu đối tác. Có nhiều cách định nghĩa về rủi ro đạo đức.
- Rủi ro đạo đức là tình trạng một bên tham gia thị trường không thể giám sát hoạt động của phía bên kia. Vì lí do này, rủi ro đạo đức còn được gọi là vấn đề hành động ẩn giấu
- Rủi ro đạo đức là một cách gọi khác của hành động ẩn giấu theo đó người được thông tin có thể thực hiện những hành động sai trái
- Rủi ro đạo đức phát sinh khi những người sở hữu thông tin riêng thực hiện những hành động có ảnh hưởng đối lập đến xác suất đưa đến những hậu quả xấu.
Nguyên nhân rủi ro trong kinh doanh chứng khoán
Mọi người cũng xem:
Bản chất của hoạt động kinh doanh chứng khoán
Mọi người cũng xem:
Tính rủi ro thể hiện ngay ở bản chất của hoạt động đầu tư vốn. Cũng như bất kì hoạt động đầu tư, kinh doanh nào khác, việc kinh doanh chứng khoán là “đầu tư một lượng tiền trong hiện tại và chỉ có thể thu hồi trong tương lai” thì cả quãng thời gian đó cũng chính là thời gian chứa đựng rủi ro. Mức độ rủi ro tiềm tang đến đâu phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, như thời gian đầu tư, chủ thể nhận vốn cùng các cam kết khác chính là những yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới độ rủi ro. Mức độ rủi ro của chứng khoán có mối quan hệ chặt chẽ tới tính sinh lời và tính thanh khoản của chứng khoán.
Tính thanh khoản thấp của chứng khoán được kinh doanh
Đối với chứng khoán, tính thanh khoản của nó thấp do một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, tình trạng tài chính và triển vọng thị trường của công ty, tổ chức phát hành chứng khoán không tốt. Thật không may cho nhà đầu tư chứng khoán, khi vì một lí do nào đó, chứng khoán mà họ đã mua là một công ty, tổ chức có tình trạng tài chính thiếu lành mạnh và triển vọng cung cấp các yếu tố đầu vào, cũng như yếu tố tiêu thụ sản phẩm đầu ra của công ty, tổ chức đó không đảm bảo hiệu quả vững chắc. Rủi ro đối với nhà đầu tư sẽ là tối đa khi công ty, tổ chức đó không đảm bảo hiệu quả vững chắc. Rủi ro đối với nhà đầu tư sẽ là tối đa khi công ty, tổ chức phát hành chứng khoán bị phá sản hoặc đơn giản là lặng lẽ biến mất trên thương trường sau những pha tự đánh bóng khá chuyên nghiệp, giật gân nhằm thu hút, dẫn dụ những nhà đầu tư.
Thứ hai, lựa chọn không đúng cơ cấu chứng khoán đầu tư, nhà đầu tư chứng khoán có thể chịu rủi ro từ việc bỏ hết trứng vào một giỏ. Việc sở hữu thuần túy các cổ phiếu ưu đãi mà không được chuyển nhượng trong thời hạn nhất định (thường từ 3-5 năm) cũng có thể khiến cho nhà đầu tư gặp rủi ro liên quan đến tính thanh khoản thấp của các chứng khoán này, nhất là khi họ cần tiền để trả lãi vay ngân hàng hoặc muốn rút vốn để đầu tư vào nơi khác có lãi hơn, an toàn hơn,…
Vấn đề thông tin không cân xứng
Mọi người cũng xem:
ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ CỦA CÁC PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TRONG KINH DOANH
Phân tích mối quan hệ của công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư với các ngân hàng thương mại trong hoạt động đầu tư
Bình luận mức độ phù hợp của quy định hiện hành với cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến mô hình các chủ thể kinh doanh chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Trong các giao dịch tài chính luôn xuất hiện một mâu thuẫn cơ bản và cố hữu, một mâu thuẫn tạo nên cơ sở tồn tại của các điều kiện cho vay trong các tổ chức tài chính, đó là sự không cân xứng về thông tin giữa người cho vay và người đi vay. Người cho vay đóng vai trò người cung cấp vốn trong giao dịch tài chính và thường không có sự khác biệt lớn về đồng vốn giữa những người cho vay. Nói một cách khác, những thông tin về phía đối tác của mình mà người đi vay có được là tương đối đồng nhất. Người đi vay có thể huy động từ một trong những người cung cấp vốn mà không cần quan tâm nhiều đến bên cho vay vì chỉ cẩn vay được vốn là họ đã đạt được gần như hoàn toàn mục đích của một giao dịch tài chính.
Về bản thân của chủ thể hoạt động kinh doanh chứng khoán
Sự thiếu hiểu biết, thiếu kĩ năng tổng hợp, phân tích và phản ứng thị trường một cách nhạy bén, chính xác của các chủ thể hoạt động kinh doanh chứng khoán cũng là một yếu tố quan trọng tạo ra những rủi ro cho các chủ thể này. Một bộ phận chủ thể khác có hiểu biết pháp luật, nhưng vì lợi nhuận, lách luật hay không chấp hành các quy định của pháp luật, cũng dễ tạo ra những rủi ro pháp lí, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh.
Biện pháp cơ bản để phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán
Mọi người cũng xem:
Phân chia lợi nhuận theo tỉ lệ góp vốn trong công ty TNHH qua tình huống cụ thể
Phân tích các điều kiện để được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào trong phương pháp khấu trừ
Phân tích 04 điểm khác biệt cơ bản giữa quy định pháp luật về đấu thầu trong Luật Thương mại năm 2005 và Luật Đấu thầu năm 2013
- Sửa đổi bổ sung một số quy định của pháp luật
Pháp luật chứng khoán đã quy định việc xử phạt hành chính đối với hành vi vi phạm cụ thể trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán. Cùng với việc đề xuất nâng mức tiền phạt tối đa, yêu cầu đặt ra cũng cần phải nâng mức tiền phạt đối với mỗi hành vi vi phạm.
- Hoàn thiện một số quy định về xử lí vi phạm vốn còn nhiều bất cập, thiếu xót
Pháp luật cần quy định chặt chẽ hơn theo hướng yêu cầu doanh nghiệp phải báo cáo cụ thể về việc sử dụng vốn thu được từ đợt phát hành trước. Việc đánh giá tính hiệu quả của việc sử dụng vốn, cũng như việc sử dụng vốn đúng mục đích là một trong những khâu không thể thiếu trong quá trình xem xét chấp thuận cho đợt phát hành vốn tiếp theo.
- Tăng cường công tác thanh tra, giám sát
Mục tiêu chính của công tác thanh tra, giám sát hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán không phải chỉ là để phát hiện, xử lí những người vi phạm pháp luật chứng khoán, mà quan trọng là nhằm phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi này, đảm bảo thị trường hoạt động bình ổn, có hiệu quả. Vì vậy, trong thời gian tới cần chú trọng phát triển đội ngũ làm công tác thanh tra, giám sát; nâng cao thẩm quyển, tạo vị trí, vai trò độc lập của thanh tra trong việc thực hiện nhiệm vụ. Đồng thời, xây dựng cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành có liên quan trong việc xử lí vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban Chứng khoán nhà nước
Hiện nay, thẩm quyền của cơ quan quản lí nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán ở Việt Nam là khá hạn chế. Vì vậy, cần mở rộng thẩm quyền cho Ủy ban Chứng khoán nhà nước, theo đó có quyền chất vấn những người xét thấy có thông tin liên quan về các trường hợp bị nghi ngờ có hành vi lạm dụng thị trường, có quyền tìm kiếm bằng chứng và nắm giữ tài liệu cần thiết cho việc điều tra về các trường hợp lạm dụng thị trường. Pháp luật cũng cần phải mở rộng thời hạn thanh tra, kiểm tra để cơ quan này có thể thực thi được nhiệm vụ.
- Hoàn thiện hệ thống công nghệ, thông tin, kĩ thuật
Xây dựng một hệ thống quản lí, giám sát hiện đại, đủ năng lực xử lí thông tin cho phép theo dõi toàn bộ diễn biến các giao dịch trên thị trường, phát hiện và xử lí chính xác kịp thời các hành vi vi phạm, đặc biệt là các hành vi nâng, kích giá cổ phiếu, giao dịch nội gián, thao túng giá.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục ý thức pháp luật cho các chủ thể hoạt động kinh doanh chứng khoán
Việc tuyên truyền, phổ biến và giáo dục ý thức pháp luật cho các chủ thể hoạt động kinh doanh chứng khoán có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức như thông qua các phương tiện truyền thông, báo đài, hay các cuộc tọa đàm, buổi tập huấn,…
- Khuyến khích thành lập các công ty sản xuất và bán thông tin.
Chúng ta nhận thấy, thị trường chứng khoán là một thị trường chứa ẩn đầy rủi ro nhưng bên cạnh đó hoạt động kinh doanh chứng khoán cũng đem lại rất nhiều lợi ích cho nền kinh tế nước ta. Chính vì vậy, mà việc áp dụng các biện pháp cơ bản phòng ngừa rủi ro trên thị trường, thúc đẩy hoạt động kinh doanh chứng khoán phát triển, đẩy mạnh tính thanh khoản là vô cùng cần thiết để các nhà đầu tư yên tâm khi đầu tư vào thị trường chứng khoán.
Trên đây là toàn bộ câu trả lời của chúng tôi về vấn đề: Những biện pháp cơ bản để phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán. Nếu nội dung tư vấn còn chưa rõ, có nội dung gây hiểu nhầm hoặc có thắc mắc cần tư vấn cụ thể hơn, bạn có thể kết nối tới Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy để được tư vấn trực tiếp.
Trân trọng./.